Di tích lịch sử

Việt nam

Chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh

Chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh là một ngôi chùa cổ có từ trước thời Lý và được xếp hạng di tích quốc gia; chùa thuộc địa phận thôn Duy Tinh, xã Văn Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Chùa cũng là nơi thờ đại tướng Trần Hưng Đạo. Xã Văn Lộc, huyện Hậu Lộc xưa kia là trị sở của quận Cửu Chân gần 400 năm (suốt thời Lý, Trần). Thái úy Lý Thường Kiệt đã từng ở đây 19 năm. Cuốn từ điển di tích văn hoá Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học &Xã hội (trang 582) ghi về chùa như sau: "Chùa có từ lâu, trước đời Lý. Vua Lý Nhân Tông đi tuần phương nam, xa giá dừng ở trị sở châu Ái (Thanh Hoá) rồi trở về... để báo ơn vua, chúc quốc vận trường tồn, Thông phán Chu Công (người được vua nhà Lý cử trấn giữ, cai quản Thanh Hóa) bàn giao cho huyện lệnh là Lê Chiếu dựng lại ngôi chùa cổ đã đổ nát. Dân bản huyện góp lương, góp sức, san gò, lấp trũng, thợ mộc, thợ nề, gắng sức trong 2 năm dựng xong chùa vào cuối năm mậu tuất (Hội Tường Đại Khánh 9) (1118). Quy mô kiến trúc to lớn, xây dựng chạm trổ công phu…. Qua các triều đại tiếp theo, Chùa là thiền viên có danh tiếng ở Ái Châu. Do biến động của lịch sử, chùa bị đổ nát. Năm 1952 toà tiền đường đã bị bom Pháp làm sập; tấm bia thời Lý bị sứt trán…Sau đó, chùa được các nhà sư và nhân dân quanh vùng sửa chữa lại với quy mô nhỏ, diện tích chùa bị thu hẹp. Sau này, chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh đã được Bộ Văn hoá đưa vào danh sách Di tích quốc gia Việt Nam ngày 13/3/1990. Chùa được tu bổ lớn từ năm 1997: gác chuông, trung đường, toà tiền đường tôn tạo hoàn thành năm 2001 có kiến trúc đẹp gồm tám mái, với các cột xà, cửa… toàn bằng gỗ lim, nhà tổ cũng được tu bổ năm 2005, cầu đá năm 2007… Bộ Văn hoá thông tin đã đồng ý cho ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá phê duyệt dự án tổng thể tôn tạo chùa chính và khuôn viên chùa. Đến nay (2010), phần tôn tạo cơ bản đã hoàn thành. Ngoài ra, cùng với sự đóng góp của phật tử khắp nơi, nhà chùa còn cải tạo được hồ sen trước chùa và xây cây cầu vòm bắc qua hồ sen dẫn vào chùa, tạo nên vẻ đẹp cổ kính vốn có của các ngôi chùa cổ. Hiện nay chùa còn nhiều hiện vật quý của thời Lý mà các di tích cùng thời không có. Cụ thể là: hàng rồng lớn chạm trên đá là những phần còn lại của cây tháp lớn, những đầu rồng và phượng bằng gốm rất lớn mang tư cách những con vật vũ trụ. Trên tam bảo còn để lại 3 bệ đá hoa sen tương tự bệ đá ở chùa Thầy Hà Nội, nhưng các bệ đá này đã được làm kĩ hơn ở các làn sóng dưới chân. Trong chùa còn nhiều tượng gỗ rất quý, đặc biệt là 3 pho tượng quan âm bằng gỗ được tạc vào khoảng giữa thế kỷ 17. Những đồ thờ trong chùa như bàn, ngai, khám, ỷ đã có suốt trong các thế kỷ 17, 18, 19. Chuông của chùa được đúc vào năm Gia Long thứ 11 (1812). Ngay sau khi bước qua cây cầu đá dẫn vào chùa, du khách sẽ thấy hai tượng Hộ pháp uy nghi ngay trước cổng chùa. Bước qua cổng là đến khuôn viên chính của Chùa. Bên phải là tiền đường phụ dành cho các gia chủ làm lễ. Bên trái là dãy nhà ở dành cho tăng ni trong chùa. Tiền đường chính ở giữa khá lớn và hầu hết các hoạt động tế lễ đều diễn ra ở đây. Bước qua bậc cửa, du khách sẽ thấy hiện ngay trước mặt là rất nhiều pho tượng lớn uy nghi trải dài mãi tận sâu bên trong. Ngay bên trái sảnh đường là kệ thờ các thân nhân phật tử quá cố được gửi vào chùa. Du khách có thể đi sâu vào bên trong khám phá tài năng của các nghệ nhân hoặc chứng kiến quang cảnh của các buổi cầu siêu. Chùa tổ chức lễ hội hàng năm từ ngày 8-10/2 âm lịch thu hút không những bà con phật tử nhiều nơi mà còn cả vị đại biểu của tỉnh và huyện cũng như khách thập phương về dự. Vào mùng một tết Nguyên đán, nhân dân trong huyện đi lễ rất đông. Nguồn Cổng thông tin điển tử tỉnh Thanh Hóa .

Thanh Hóa 358 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Khải Nam

Chùa Khải Nam trước năm 1945 nằm trên địa bàn Làng Cá Lập, xã Lương Niệm, Tổng Giạc Thượng (vào đầu thế kỷ 19 đổi thành tổng Cung Thượng), Phủ Tĩnh Gia, Trấn Thanh Hoa. Nay là xã Quảng Tiến, thị xã Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Chùa Khải Nam có nhiều tên gọi khác nhau. Trước kia chùa có tên gọi là Chùa ải hay Chùa Giạc. Chùa ải là tên nôm do đọc chệch âm từ chữ Khải, chữ hán tự mà ra, còn tên Chùa Giạc là tên gọi theo địa danh hành chính. Đến cuối thế kỷ 19 thì Chùa Khải Nam mới có tên gọi chính thức bằng chữ hán. Tên Chùa Khải Nam hiểu theo nghĩa thông thường là: Mở rộng lòng từ bi, đón nhận cứu khổ mọi chúng sinh trên Nước Nam. Đã phần nào đã nói lên tư tưởng Phật phái thời Nhà Trần. Chùa Khải Nam xây dựng theo phong cách kiến trúc thời Lê, trước cửa Tam quan có Chợ Chùa với nhiều cây cổ thụ cao to, sầm uất. Tam quan chùa với gác chuông như một hoa sen vuon lên giữa biển lúa xanh rờn, đuợc vun bón bởi phù sa sông Mã bồi đắp. Đây là cụng trình kiến trúc nghệ thuật đậm vẻ kiến trúc của thế kỷ 17. Với nhiều phù điêu, đường nét hoa văn tinh sảo, hài hoà. Tượng Phật trong chùa đều mang giá trị nghệ thuật rất cao, cách thể hiện giáng mẫu, điêu khắc khi tạo hình, hợp với tính truyền thống của người Việt, truyền thống Phật giáo. Các tượng đều được trạm khắc rất kỹ, chau chuốt mềm mại. Khuôn mặt tượng mang dáng vẻ đôn hậu, gần gũi, mắt nhìn xuống trong sự soi rọi nội tâm và mỉm cười cứu độ. Biểu hiện tính nhân đạo rất cao. Hiện nay Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Thanh Hoá còn đang lưu giữ được một số phù điêu hoa văn bằng gỗ rất đẹp của chùa Khải Nam. Trong những năm tháng chiến tranh chống Mỹ cứu nước, các cây cổ thụ, Tam quan, Nhà Tả vu, Tường rào đã được tháo dỡ để phục vụ cho cuộc kháng chiến. Đến năm Đinh Tỵ (1977) do có sự sai lầm về quan điểm giữa truyền thống văn hoá dân tộc với mê tín dị đoan. Chùa Khải Nam đã bị tháo dỡ và hư hỏng, may thay còn rất nhiều số đồ thờ cổ quý giá như Bát hương, Lư hương, Hạc đồng... vẫn còn được địa phương và Phật tử bảo quản, lưu giữ lại. Trên nền Chùa cũ, nay là Trường Tiểu học còn một cây Sanh già gần 300 tuổi hình thù cổ quái rất đẹp. Theo đánh giá của các chuyên gia Sinh vật cảnh trong nước thì cây si có giá trị gần Một Tỷ Đồng. Đây là cổ vật của toàn dân nên đang được địa phương chăm sóc giữ gìn chu đáo. Vào cuối những năm thập kỷ 80, thiên niên kỷ thứ 2. Theo nguyện vọng của nhân dân và các Phật tử. Các Cụ Ngũ hiệu Làng Cá Lập đã kêu gọi nhân dân, Phật tử trong Làng và thập phương phát tâm công đức xây dựng tạm một gian nhà gần 20m2 ngay sát Đền thờ Làng Cá Lập (Di tích LSVH cấp Quốc gia) để thờ Phật. Đến năm Giáp Tuất (1994) do nhu cầu sinh hoạt văn hoá tâm linh, Nhân dân Làng Cá Lập lại đóng góp tu bổ, cơi nới rộng ngôi chùa, tô tạc thêm tượng Phật như hiện nay. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Thanh Hóa .

Thanh Hóa 388 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền thờ An Dương Vương

Đền thờ An Dương Vương thuộc địa phận làng Bình Hòa, xã Quảng Châu nằm ở vị trí địa lý thuận lợi về giao thông thủy bộ, có Quốc lộ 47 chạy qua, cùng với con sông Đơ, một nhánh sông bắt nguồn từ sông Lạch Trào chạy qua trước làng về phía Nam, dãy núi Trường Lệ như bức bình phong. Xưa kia làng Bình Hòa thuộc xã Bình An, tổng Cung Thượng, huyện Quảng Xương, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Ngày nay Bình Hòa chia làm 4 thôn: Châu Bình, Châu An, Châu Thành, Châu Chính. Theo truyền thuyết, sau khi An Dương Vương chém Mỵ Châu và nhảy xuống biển tự vẫn có đánh rơi một chiếc đai vàng vào cánh đồng trước đền bây giờ. Để tưởng nhớ đến công lao dựng nước của An Dương Vương, làng Bình Hòa đã lập đền thờ An Dương Vương và Công chúa Mỵ Châu. Sau này, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, ngôi đền không còn nữa. Năm 1993, cấp ủy, chính quyền cùng nhân dân địa phương đã trùng tu lại đền với các hạng mục: Thượng cung, Trung điện, Tiền đường, Đền thờ công chúa Mỵ Châu, đền thờ Mẫu, đền thờ Bác Hồ...với tổng diện tích gần 4000m2. Năm 1997, đền thờ An Dưong Vương và công chúa Mỵ Châu được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Thanh Hóa .

Thanh Hóa 387 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Cá Lập

Ngoài tên gọi dân gian, đền Cá Lập (tọa lạc trên địa bàn làng Cá Lập xưa kia) còn được biết với những tên gọi như: đền thờ Tây Phương Thành hoàng xã Quảng Tiến; Nghè làng Trấp, hay tên chữ là “Tướng công linh từ” - đền thờ vị tướng linh thiêng. Dẫu vậy, dù là tên gọi có thể khác nhau, song di tích chính là nơi thờ phụng vị tướng tài ba mà nhân dân Sầm Sơn bao đời qua vẫn thường gọi tên “Tây Phương Đại tướng quân”. Tương truyền, cuộc đời binh nghiệp của ông gắn liền với cuộc kháng chiến chống giặc xâm lược Nguyên Mông của vương triều Trần và nhân dân Đại Việt xưa kia. Di tích đền Cá Lập trải qua hơn 700 năm khởi dựng và nhiều lần trùng tu vẫn được nhân dân trong vùng gìn giữ, bảo vệ trở thành địa điểm tín ngưỡng tâm linh thể hiện sự ngưỡng vọng của nhân dân vùng biển Sầm Sơn đối với vị tướng tài danh. Với thần tích và giá trị hiện hữu, năm 1999 di tích đền Cá Lập đã được Bộ VHTT công nhận là Di tích Quốc gia. Nguồn Sở Văn hóa , Thể thao và Du lịch tỉnh Thanh Hóa .

Thanh Hóa 341 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Kênh ( Chùa Hưng Phúc )

Nằm trong chùa Hưng Phúc, còn gọi là chùa Kênh (xã Quảng Hùng, TP Sầm Sơn), được xây dựng vào cuối mùa đông năm Giáp Tý, niên hiệu Khai Thái nguyên niên (1324) thời vua Trần Minh Tông (1314-1329), tấm bia là tài liệu gốc duy nhất ghi chép về một “hương” chiến đấu dưới thời Trần có sự đoàn kết đánh bại đội quân xâm lược Nguyên - Mông do Toa Đô chỉ huy. Chùa được xây dựng ở hương Yên Duyên để thờ Phật và thờ Thượng tướng minh tự Lê An, người có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ nhất (năm 1258), đồng thời được vua Trần Thái Tông phong tướng và cho gả công chúa. Là tướng cận kề Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, nên khi mất, tướng Lê An được triều đình gia phong “Đô Nguyên súy vĩ thống quản, Đại thần trụ quốc, Đại tướng quân” - một tước hiệu rất lớn dưới triều nhà Trần. Xuất phát từ tấm lòng từ bi, hiếu thuận, Lê Bằng - con thứ của Thượng tướng minh tự Lê An, đã khởi công xây dựng chùa năm 1264. Công việc chưa hoàn thành thì Lê Bằng mất, người con thứ là Lê Mạnh tiếp tục công việc và xây lại chùa rộng lớn, đẹp đẽ hơn. Năm 1326 chùa hoàn thành, gồm 11 toà nhà ngói và hai gian thảo lư khang trang, toạ ngự trên thế đất đẹp vừa trang nghiêm vừa thanh nhã. Chùa bị quân Minh xâm lược phá hủy hoàn toàn vào thế kỷ XV, chỉ còn lại tấm bia ghi chiến công của quân dân Đại Việt do tướng Lê Mạnh chỉ huy. Cụ thể, năm 1285, Lê Mạnh chỉ huy dân binh địa phương phục kích cánh quân Toa Đô từ phía Nam đi tắt qua Cổ Khê, tiến vào Thanh Hoá, đánh một trận thắng lớn ở vùng Cổ Bút. Chiến công ấy được ghi tạc trên tấm bia dựng trong chùa, một di vật quý của văn hoá Lý - Trần. Bia cao 1,5 m, rộng 0,6 m, dày 0,25 m, dựng trên lưng rùa đang xoạc chân vươn cổ về phía đông. Trán bia tạc đôi rồng chầu mặt trời uốn khúc cuồn cuộn, khỏe mạnh. Thân rồng để trơn, giản dị, đặc trưng rồng thời Lý - Trần. Bốn chữ Hưng phúc tự bi viết theo lối chữ triện trên trán bia. Hai bên là hai đường viền hoa văn cúc dây và phía dưới là sóng nước được cách điệu cao. Văn bia được soạn khắc năm khánh thành chùa, tức năm Khai Thái thứ 3 (1326), do Đô tướng quân Trần Quốc Chính đại phu soạn. Đây là một trong hơn mười tấm bia thời nhà Trần duy nhất còn lại ở Việt Nam. Bài văn bia có 2 phần: phần trên kể lại việc dựng chùa và thuật lại công tích của Lê Mạnh, phần dưới là bài minh 24 câu, ca ngợi công đức họ Lê. Với giá trị nhiều mặt về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật và tư tưởng của tấm bia cổ, ngày 4-9-1995 Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã xếp hạng cấp Quốc gia Di tích bia chùa Kênh. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Thanh Hóa .

Thanh Hóa 397 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Đề Lĩnh

Đền nằm trên một gò đất cao, tương truyền là nơi an táng của ông và hai người con gái. Đền hướng tây nam, phía trước là cánh đồng sen bát ngát, xa xa là dòng sông Đơ hiền hòa ngày đêm chảy về với biển. Đề Lĩnh người làng Bồng Báo, xã Vĩnh Hùng (Vĩnh Lộc), có tước quan xếp vào hạng tứ đại triều đình dưới thời Vua Lê Tương Dực (1510 -1516), là người tài trí hơn người, văn võ song toàn. Theo sử sách, từ khi được nhà vua giao trấn giữ vùng xung yếu cửa biển Sầm Sơn, ông đã tiến hành khai hoang mở đất, luyện binh, lập trại ngày đêm rèn luyện võ nghệ và chăm lo đời sống yên vui cho Nhân dân nên được mọi người rất mực ca ngợi. Trong một lần quân Minh tràn vào nước ta bằng đường biển, chúng giết dân cướp đất, tướng công Đề Lĩnh đã chiêu mộ binh sỹ đem quân đánh giặc nhưng thế trận chênh lệch lại bị cô lập không có người ứng viện kịp thời nên quân ta đã bị giăc vây hãm. Hai cô con gái của ông vì muốn báo thù cho cha nên đã cầm quân giải vây cho cha. Ba cha con chiến đấu ngoan cường cho tới giây phút cuối cùng. Ghi nhớ công lao to lớn của tướng Đề Lĩnh và hai ái nữ của ông, Nhân dân đã xây mộ, lập đền để ngày đêm kính cẩn hương khói người anh hùng dân tộc. Ngôi đền được nằm trên khoảng đất cao ráo tương truyền là phần đầu rồng linh thiêng, xung quanh là cảnh quan đẹp mắt, non nước hữu tình. Phần mộ Đề Lĩnh được xây dựng kiên cố bên trong ngôi đền.Phần mộ được ốp bới những lớp đá cổ đẹp mắt. Nơi đây còn lưu giữ 9 sắc phong cổ, được xem là báu vật của địa phương. Ngoài ra, còn có nhiều di vật cổ như: Bia ký, khánh đá, lư hương...Bảng văn chỉ có tuổi đời hàng trăm năm cũng được gìn giữ cẩn thận. Vào ngày 17 tháng giêng hằng năm, người dân địa phương lại tổ chức tế lễ hương và mở hội đấu vật để ghi nhớ công ơn đối với vị công thần của đất nước, ông tổ nghề võ vật. rải qua nhiều thế kỷ với không ít thăng trầm nhưng ngôi đền vẫn được Nhân dân chăm lo hương khói và tỏ lòng ngưỡng mộ. Năm 1993 đền đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Thanh Hóa .

Thanh Hóa 390 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Tô Hiến Thành

Nằm trên núi Trường Lệ, đền thờ Tô Hiến Thành là một ngôi đền cổ nổi tiếng của thị xã Sầm Sơn nói riêng và tỉnh Thanh Hóa nói chung. Đền còn có tên gọi là Đền Đệ Nhị hay đền Trung, là một ngôi đền trong hệ thống ba đền của làng Núi hay Sầm Thôn (Đền Độc Cước là đền Thượng, đền Đệ Nhất; Đền Hoàng Minh Tự là đền Đệ Tam hay đền Hạ). Tương truyền ngôi đền đã có lịch sử trên 800 năm, là nơi thờ Tô Hiến Thành - quan đại thần phụ chính nhà Lý dưới hai triều vua Lý Anh Tông và Lý Cao Tông. Ông là viên quan văn võ song toàn, nổi tiếng là công minh chính trực, được vua phong tước vương mặc dù không phải tôn thất nhà Lý. Trải qua các thăng trầm lịch sử, ngôi đền đã trải qua nhiều lần trùng tu và xây mới. Hiện tại ngôi đền có cấu trúc hình chữ Đinh, gồm 3 cung: Bái đường, Trung đường và Hậu cung. Bái đường có ba gian thờ cộng đồng các quan, là nơi tổ chức các thể thức tế lễ vào ngày lễ hội, giỗ Ngài… Trung đường có gian, là nơi đặt khám thờ và tượng ngài Tô Hiến Thành. Hậu cung đặt khám thánh vị, sắc phong. Khuôn viên đền rộng rãi, có nhiều cây xanh che bóng. Nét cổ kính, rêu phong của ngôi đền. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Thanh Hóa .

Thanh Hóa 356 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Cô Tiên

Đền Cô Tiên nằm trên đỉnh hòn Đầu Voi cuối dãy núi Trường Lệ về phía Tây Nam. Hòn đầu voi là hòn thứ năm trong hệ thống phân loại dân gian. Nó có tên chữ là "Tượng Đầu Sơn" cũng có nghĩa núi Đầu Voi, vì dãy núi Trường Lệ đang chạy dài đến chỗ này chợt nhô ra một hòn hình dáng như đầu con voi đang cúi mình uống nước. Đền Cô Tiên được xây dựng vào thời Lý theo kiểu kiến trúc cổ, gồm 3 lớp: Tiền Đường, Trung Đường và Hậu Cung. Kiểu kiến trúc hình chữ Đinh (hay kiến trúc chuôi vồ). Trải qua bao độ mưa nắng, gió bão và sự tàn phá của chiến tranh ngôi đền đã bị hư hỏng nặng. Ngôi đền đã qua nhiều lần trùng tu tôn tạo. Những năm 90 của thế kỷ XX, Ban quản lý di tích thành phố Sầm Sơn cho sửa chữa lại một số hạng mục. Lần tu sữa gần đây nhất vào năm 2010 Thành phố Sầm Sơn đã trùng tu tôn tạo lại toàn bộ ngôi đền nhưng vẫn giữ nguyên nét cổ kính. Kinh phí xây dựng Đền là từ nguồn tiền công đức của nhân dân và du khách thập phương. Ngôi đền đã được xếp hạng Di Tích quốc gia năm 1962. Nguồn Cổng thông tin tỉnh Thanh Hóa .

Thanh Hóa 390 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Độc Cước

Đền Độc Cước là đền thờ vị thần mang cùng tên, một vị thần trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Đền Độc Cước nằm trên đỉnh núi mang tên hòn Cổ Giải thuộc dãy núi Trường Lệ ở thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa, ngay cạnh bãi biển Sầm Sơn. Đền được xây dựng vào thời nhà Trần, sang đến thời nhà Lê được được trùng tu lại nhiều lần. Đường lên đền là 45 bậc bằng đá. Tượng thần Độc Cước bằng gỗ chỉ có một tay, một chân. Phía sau đền có Môn Lâu dựng năm 1863 bằng gỗ. Năm 1962 đền được Bộ Văn hóa, Thông tin Việt Nam xếp hạng di tích cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Thanh Hóa .

Thanh Hóa 375 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Thần Hoàng

Đền Thần Hoàng ở thị trấn Cốc Pài có diện tích gần 4.000m2, được xây dựng kiểu kiến trúc nhà sàn cổ, 3 gian, 2 trái với 2 cầu thang lên xuống; tổng diện tích sàn trên 250m2, gồm các hạng mục: Am thờ thiết kế kiểu dáng giống Chùa Một Cột (Hà Nội), được đổ bê-tông mặt phẳng, 3 bức tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi hài đỏ, chất liệu bằng sứ; sân Đền xây dựng năm 2010, láng xi-măng, dài 13m, rộng 2,5m, từ sân lên Đền 12 bậc; tầng trên đặt tượng Quan Thếm, tầng dưới đặt bát hương thờ thổ địa...; tựa lưng núi, mặt quay hướng Nam, có đôi Rồng đá rất đẹp. Đền được xây dựng trị giá trên 3,73 tỷ đồng theo nguồn vốn xã hội hóa, riêng Công ty TNHH Gia Long - đơn vị chủ động đứng ra tôn tạo di tích - đóng góp 2,9 tỷ. Đây là nơi thờ tự ông Hoàng Vần Thùng, người con của đồng bào Xín Mần đã có công khai thiên, lập đất, tổ chức dân làng làm ăn, chấn giữ biên ải cách đây nhiều thế kỷ... Hàng năm, đồng bào tổ chức tế lễ tưởng nhớ ông Hoàng Vần Thùng, coi như Thần Hoàng làng vào ngày Thìn đầu tiên, của tháng Thìn (tháng 3 âm lịch) với nghi lễ dân gian trang trọng. Ngày 30.11.2011, UBND tỉnh ra Quyết định số 2644/QĐ -UBND công nhận Đền Thần Hoàng là Di tích Lịch sử - văn hoá cấp tỉnh. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Hà Giang.

Hà Giang 444 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Chùa Nậm Dầu

Cùng với Chùa Bình Lâm và chùa Sùng Khánh, Chùa Nậm Dầu đang dần trở thành một điểm đến khó có thể bỏ qua đối với du khách và phật tử gần xa, đây cũng là một ngôi chùa mang đậm dấu ấn di tích khảo cổ Quốc gia. Chùa Nậm Dầu tọa lạc trên đồi Nậm Dầu, bên dòng sông Lô thuộc thuộc địa phận thôn Nậm Thanh, xã Ngọc Linh, huyện Vị Xuyên. Đã trải qua khoảng 600 năm tồn tại, được xác nhận là có mặt vào thời Trần, khoảng nửa cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIV. Qua các đợt khai quật, các nhà khảo cổ học đã phát hiện nhiều di vật tại chùa Nậm Dầu, có những di vật chỉ thấy có mặt tại Hoàng thành Thăng Long, hoặc ở các công trình lớn và quan trọng của triều đình, có những di vật lần đầu tiên phát hiện được ở Việt Nam và ở miền Biên cương vùng núi phía Bắc như: Đầu đao hai mặt tạo nổi hình rồng với kích thước khá lớn, tượng rồng, cá chép, uyên ương,…được trang trí đẹp mắt. Cùng với những di vật, kiến trúc trang trí của ngôi chùa càng khẳng định ý nghĩa và tầm quan trọng có ảnh hưởng lớn với sự phát triển nền phật giáo vùng núi biên cương Hà Giang. Đại đức Thích Đức Chung, Trụ trì chùa Nậm Dầu cho biết: Chùa Nậu Dầu là ngôi Chùa hội tụ đầy đủ các yếu tố về phong thủy và linh khí, Ngôi chùa hiện diện nơi đây đã bỏ đi được nhiều hệ lụy cho người dân, tránh mê tin dị đoan, mọi người được đến chùa lễ phật, tụng kinh. Nghe quý chư tăng, tôn đức giảng giáo lý của Đức Phật, qua đó biết đoàn kết, yêu thương, đùm bọc nhau và hướng đến cái thiện, cùng nhau phát triển kinh tế… Hoàn thành việc trung tu, tôn tạo vào năm 2007. Vẻ đẹp của ngôi chùa mang đậm nét văn hóa thời Trần nói riêng và Phật giáo Việt Nam nói chung được tạo nên từ sự hòa quyện giữa giá trị lịch sử, tâm linh và giá trị văn hóa nghệ thuật độc đáo. Ngày nay, chùa Nậm Dầu đóng vai trò quan trọng trong đời sống địa phương đồng thời góp phần vào thực hiện mục tiêu phát triển văn hóa du lịch tâm linh trên địa bàn tỉnh, huyện. Năm 2009 chùa Nậm Dầu được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di tích cấp Quốc gia. PGS.TS. Dương Văn Sáu, Nguyên Trưởng Khoa Du lịch, Đại học Văn hóa Hà Nội chia sẻ: Các triều đại phong kiến Việt Nam luôn đề cao việc giữ gìn lãnh thổ, trong đó đã biết sử dụng các công cụ về tâm linh, các tôn giáo, tín ngưỡng để bảo vệ lãnh thổ của Tổ Quốc. Hòa quyện với tôn giáo bản địa để cùng phát triển. Có thể nói, đây đã và đang và sẽ trở thành một trong những điểm đến văn hóa tâm linh sáng giá của du lịch Vị Xuyên. Và đây là hướng đi đúng của tỉnh Hà Giang nói chung và huyện Vị Xuyên nói riêng về phát triển du lịch trong thời gian tới… Nằm trong hệ thống chùa cổ của huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang, với những giá trị độc đáo, Chùa Nậm Dầu không chỉ tạo nên một vùng di tích đặc sắc, gợi mở cho các thế hệ nhiều điều về lịch sử của một vùng đất biên cương mà còn thu hút đông đảo du khách thập phương đến hành hương, tham quan danh thắng trở thành điểm đến du lịch tâm linh nổi tiếng của Hà Giang. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Hà Giang

Hà Giang 536 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Ngòi Bo

Đền Ngòi Bo nay thuộc xã Thống Nhất, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Hướng trông ra ngã ba sông – nơi giao thủy của suối Ngòi Bo và sông Hồng, ngôi đền là nơi thờ phụng Tản Viên Sơn Thánh – một trong Tứ bất tử của tín ngưỡng dân gian Việt, “là vị thần linh thiêng bậc nhất của trời Nam”. Theo lời kể của các bậc lão niên, những người quê gốc miền xuôi trong thôn khi đến đây và gắn bó với vùng đất này đã dựng miếu, đền thờ phụng Đức Thánh Tản Viên – vị Thánh được tôn thờ ở khắp vùng trung du và châu thổ Bắc Bộ với niềm tin kiền thành vào sự phù hộ, che chở của Ngài. Sự tín tưởng ấy chính là bệ đỡ, là điểm tựa tinh thần của những người con xa quê trên bước đường tạo dựng cuộc sống ở miền đất mới, đồng thời là sự nhắc nhớ, sự duy trì ký ức về quê hương bản quán, về nguồn cội cha ông. Lễ hội đền Ngòi Bo diễn ra vào ngày 11 tháng Giêng hằng năm. Đền Ngòi Bo được xếp hạng Di tích lịch sử – văn hóa cấp Tỉnh năm 2016 Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Lào Cai.

Lào Cai 422 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Di tích Lịch sử đồn Phố Ràng

Di tích Lịch sử Quốc gia đồn Phố Ràng ở thị trấn Phố Ràng, huyện Bảo Yên (Lào Cai) là chứng tích đặc biệt, nơi khắc ghi chiến thắng lịch sử hào hùng, oanh liệt của thế hệ cha ông 73 năm về trước (26/6/1949 – 26/6/2022).​ Theo Lịch sử đảng bộ huyện Bảo Yên (Lào Cai), đồn Phố Ràng được xây dựng trên cao điểm 442, diện tích rộng gần 1 ha; đây là một vị trí chiến lược, có thể khống chế toàn bộ khu vực lòng chảo thị trấn Phố Ràng và các khu vực lân cận. Thế đồn gần như 3 mặt là sông, ở vị trí đồn có thể bao quát, theo dõi toàn bộ các hoạt động ở sông và hai bên bờ. Pháp cho xây dựng một hệ thống công sự vững chắc với nhiều lô cốt, giao thông hào, hàng rào tre vót nhọn ken dày đặc quanh cứ điểm, mìn, vật cản và ụ súng được bố trí xung quanh đồn. Địch còn bố trí 2 trung đội Âu - Phi, 1 đội lính khố đỏ, 1 trung đội lính dù, 1 trung đội lính dõng, các loại vũ khí sẵn sàng đánh trả và cản bước tiến của các nhánh quân ta lên giải phóng vùng Tây Bắc. Ngày 11/06/1999 di tích đồn Phố Ràng được Bộ Văn hoá Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể Thao – Du lịch) công nhận là Di tích Lịch sử cấp Quốc gia, theo Quyết định số 38/QĐ-BVHTT. Nguồn Bộ Văn hóa, Thể Thao – Du lịch.

Lào Cai 423 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử Chiến thắng đồn Phố Lu

Di tích lịch sử Địa điểm Chiến thắng Đồn Phố Lu nhìn tổng thể xung quanh là núi cao, rừng rậm, vách đá dựng đứng, sông suối sâu. Có 2 cụm lô cốt là cụm gần và cụm xa. Cụm gần có 3 lô cốt: Số 1 đã bị lũ cuốn trôi năm 1971 do sạt lở. Số 2 chất liêu bê tông cáo 4,5m dài 4,5m, rộng 3,7m. Số 3 cách ga Phố Lu 900m. Cụm xa có 2 lô cốt xây trên đỉnh đồi cao khoảng 50 - 70m. Trung tâm đồn là Sở chỉ huy, nay là số nhà 244 đường Lê Hồng Phong. Ngoài ra còn có trại lính và nhiều hầm ngầm bê tông kiên cố, hiện tại chỉ còn 5 hầm. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Lào Cai.

Lào Cai 443 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu di tích Soi Cờ, Soi Giá

Bảo Thắng là một huyện có bề dày về truyền thống cách mạng, có hệ thống di tích lịch sử khá phong phú và mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Ngày 24/7/2007, Khu căn cứ cách mạng Soi Cờ - Soi Giá thuộc xã Gia Phú đã được UBND tỉnh Lào Cai xếp hạng là di tích cấp tỉnh. Đây là một di tích đã tồn tại gần một thế kỷ, là một trong những khu căn cứ cách mạng quan trọng nằm trong vùng hoạt động rộng lớn Cam Đường - Gia Phú - Xuân Giao. Đặc biệt trong giai đoạn 1947 - 1950, Soi Cờ -Soi Giá đã gây dựng được cơ sở cách mạng khá vững chắc, được nhân dân hưởng ứng nhiệt liệt nên phong trào cách mạng dân tộc được đẩy lên cao mạnh mẽ, các đội du kích đã gây nhiều tổn thất cho quân giặc. Vì vậy chúng tổ chức đàn áp dã man giết hại nhiều cơ sở cách mạng của ta nhằm uy hiếp phong trào đấu tranh nơi đây... Khu căn cứ cách mạng Soi Cờ - Soi Giá đã ghi dấu cuộc đấu tranh cách mạng. Là một trong những di tích quan trọng và có giá trị lớn của huyện Bảo Thắng" Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Lào Cai.

Lào Cai 363 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Khu di tích lịch sử Pú Gia Lan

Đến Văn Bàn, vào trung tâm thị trấn đã thấy núi Gia Lan hùng vĩ hiện ra trước mắt. Dưới chân núi là thung lũng trải dài, vùng đất trù mật, đông đúc. Núi Gia Lan không chỉ có vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng mà còn nổi tiếng bởi đây là khu căn cứ bí mật của quân và dân Văn Bàn trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Ngày nay, khu căn cứ này đã trở thành khu di tích lịch sử cách mạng mà người dân quen gọi là Khu du kích Pú Gia Lan. Khu du kích Pú Gia Lan được hình thành từ năm 1947 ở khu vực núi Gia Lan, xã Khánh Yên Thượng. Đây là khu căn cứ bí mật trong vùng địch do Huyện uỷ Văn Bàn chỉ đạo xây dựng, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp giải phóng huyện Văn Bàn nói riêng và tỉnh Lào Cai nói chung. Khi thực dân Pháp chiếm đóng Văn Bàn, nhân dân các xã Làng Giàng, Khánh Yên Thượng, Khánh Yên Hạ đã tản cư vào vùng núi này. Dọc theo triền núi suốt từ Làng Giàng đến xã Khánh Yên Hạ chỗ nào cũng có dân tản cư. Khu du kích Gia Lan bao gồm toàn bộ phần đất của xã Làng Giàng, một phần phía nam của các xã: Khánh Yên Thượng, Khánh Yên Hạ, Chiềng Ken. Phía Bắc giáp với xã Nậm Rạng, phía Nam giáp với xã Nậm Tha, phía Tây Bắc giáp với xã Dương Quỳ, phía Tây Nam giáp với xã Nậm Xé - Văn Bàn và một phần của Than Uyên (Lai Châu). Khu du kích Gia Lan là nơi gặp gỡ cán bộ, bộ đội, du kích để họp bàn kế hoạch thực hiện các đợt tập luyện, huấn luyện ngắn, nơi tạo điều kiện cho việc liên lạc từ Lào Cai (ngày trước) đi các vùng ngoài tỉnh. Khu di tích Pú Gia Lan là một điểm di tích cách mạng quan trọng góp phần giáo dục ý thức cách mạng cho các thệ hệ mai sau, đồng thời giữ gìn khu di tích chính là bảo vệ môi trường sinh thái. Ngày 16/11/2006, di tích được Ủy ban nhân dân tỉnh công nhận là di tích cấp tỉnh. Núi Gia Lan với bức tường thiên tạo đã chứng kiến sự trưởng thành của cách mạng trên vùng quê đậm nét văn hóa dân gian, chứng kiến những thành tựu mà Đảng lãnh đạo nhân dân các dân tộc đánh Pháp, giải phóng quê hương Văn Bàn./. Nguồn : Báo điện tử tỉnh Lào Cai.

Lào Cai 398 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Di tích lịch sử văn hoá đền Ken

Đền Ken nằm ở xã Chiềng Ken, huyện Văn Bàn từ lâu đã là địa chỉ thu hút nhiều người dân tới vãn cảnh và chiêm bái. Năm 2006, đền Ken được UBND tỉnh Lào Cai xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Từ đó đến nay, huyện Văn Bàn đã và đang triển khai các phương án trùng tu, nâng cấp ngôi đền nhằm thu hút du khách thập phương đến tham quan, chiêm bái. Lễ hội Đền Mẫu Trịnh Tường - Điểm đến du lịch tâm linh Đền Ken tọa lạc trên đỉnh đồi Pù Đình, giữa lòng thôn Ken với khu đất rộng trên 10.000 m2. Đền thờ ông Nguyễn Hoàng Long và các vị tướng lĩnh thuộc nghĩa quân Tây Sơn đã có công đánh đuổi giặc xâm lăng trên quê hương Văn Bàn, giúp nhân dân các dân tộc nơi đây khai khẩn ruộng vườn, bảo vệ bản làng. Hàng năm, cứ vào ngày mùng 7 tháng Giêng, nhân dân lại tổ chức lễ dâng hương để tưởng nhớ đến công lao của ông. Năm 2006, đền Ken chính thức được tôn tạo, xây dựng lại khang trang và được UBND tỉnh Lào Cai xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Cuối năm 2012, UBND tỉnh đã phê duyệt Dự án trùng tu di tích đền Ken để tôn tạo ngôi đền chính khang trang hơn, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân và du khách thập phương hành hương lễ bái. Để gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa tôn nghiêm của dân tộc, UBND huyện Văn Bàn đang lập hồ sơ đề nghị nâng cấp đền Ken thành Di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Đền Ken hiện đang lưu giữ nhiều di tích lịch sử có giá trị văn hoá trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó, chính quyền địa phương cũng chú trọng tuyên truyền, vận động nhân dân giữ gìn cảnh quan môi trường, lưu giữ và phát triển các làng nghề truyền thống, bản sắc văn hóa vùng miền, tạo điểm nhấn cho du khách khi đến tham quan, trải nghiệm và lễ bái. "Trong thời gian tới, xã mong muốn nhận được sự quan tâm của các cấp các ngành, đặc biệt là Phòng văn hóa thông tin huyện để khơi dậy, gìn giữ những nét văn hóa đặc sắc của các dân tộc, từ đó giúp phát triển văn hóa du lịch tâm linh tại địa phương được tốt hơn", ông Vấn Gia Lâm, Chủ tịch UBND xã Chiềng Ken, huyện Văn Bàn cho biết. Nhờ sự quản lý chặt chẽ của các ban, ngành và chính quyền địa phương nên vấn đề an ninh trật tự, vệ sinh môi trường ở khu vực đền được đảm bảo, giữ được sự tôn nghiêm. Ông La Quốc Lưu, Thủ nhang đền Ken chia sẻ thêm: "Mọi hoạt động trong đền đều phải được Ban quản lý đền cho phép mới được thực hiện, để bảo đảm công tác tổ chức, quản lý cũng như tránh tình trạng buôn thần bán thánh tại khu vực tâm linh của nhà đền". Không chỉ là chốn linh thiêng để du khách đến dâng hương cầu an, đền Ken còn là điểm đến hấp dẫn trong hành trình du lịch tâm linh của nhiều du khách. Nguồn : Văn hóa du lịch tỉnh Lào Cai.

Lào Cai 503 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đình Kiền Bái

Đình Kiền Bái nằm ở xã Kiền Bái, huyện Thuỷ Nguyên, Hải Phòng. Xưa kia, Kiền Bái còn có tên là Hổ Bái Trang thuộc huyện Thuỷ Đường, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương. Trang Hổ Bái nằm ngay ở xóm Đông. Các vị thần được thờ ở đình là: - Trung Quốc Cảm ứng thượng đẳng thần. - Lôi Công Uy Diệu thượng đẳng thần. Theo "Thuỷ Nguyên huyện thần tích" hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm - Hà Nội, đình Kiền Bái thờ hai vị thành hoàng Ngọc và Bích, là hai anh em sinh đôi. Tương truyền lúc mới sinh, 2 vị đều khôi ngô tuấn tú, nhưng đều mất sớm, rất linh thiêng, đã nhiều lần phù hộ dân làng Kiền có cuộc sống yên ổn, làm ăn thịnh vượng. Khi quân Nguyên sang xâm lược nước ta (1287 - 1288), 2 vị âm phù Vua Trần đánh giặc. Vua cho lập đền thờ và phong thần hiệu: Trung Quốc Cảm ứng thượng đẳng thần và Lôi Công Uy Diệu thượng Đẳng thần. Đình Kiền Bái được xây dựng vào nửa cuối thế kỷ XVII, Đình có cấu trúc kiểu chữ đinh gồm 5 gian tiền đường, 2 gian hậu cung. Tiền đường, trừ gian giữa( khoang thuyền), 4 gian đều bưng gỗ, lát ván sàn. Trên cột cái, vì xà chính ghi năm tạo dựng (1681) và tên những người đóng góp công đức. Đây là công trình kiến trúc điêu khắc tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc thời Lê hiện còn lại ở Hải Phòng. Điểm nổi bật cửa đề tài trang trí trên công trình kiến trúc nghệ thuật này là bên cạnh hình ảnh rồng, phượng, hoa lá cách điệu, tia lửa, lưỡi mác... còn thấy rất nhiều cảnh sinh hoạt dân gian rất tự nhiên, sinh động. Đó là hình rồng nối đuôi nhau, trước mặt rồng có nhiều con thú 4 chân leo trèo trong đám vây rồng; có mảng hình rồng đan xen với thú 4 chân như thằn lằn, voi, ngựa, lợn ăn lá dáy; có mảng là cảnh sinh hoạt hình em bé chăn trâu ngồi vắt vẻo trên mình trâu... Hội làng Kiền tổ chức từ ngày 10 đến ngày 13 tháng Giêng âm lịch hàng năm. Vào những ngày này, dân làng ra đình tế lễ và nô nức vào hội: Hội hát đúm, hội nấu bánh chưng... Trong đó, nổi bật là trò chơi dân gian: cướp cây bông. Để có được hội cướp cây bông, cả làng phải đi chọn 2 cây tre cao nhất. Nhà nào chọn được tre thì phải mang bánh trưng ra đình tế. Ông mạnh bái chọn 10 thanh niên từ 18 tuổi trở lên chưa vợ hoặc là con trai đầu lòng chặt cành của 2 cây tre, rồi mỗi người chọn 2 mắt tre làm 2 cây côn(gậy) dài độ 5 trượng đem vào thờ trong đình. Cũng 2 cây tre đó được chặt hai khúc thành hai cây bông. Trong 10 trai tráng trẻ, chọn ra 2 người vót cây bông. Người vót cây bông, trước hết phải nạo hết vỏ xanh của tre, rồi dọc theo tre mà vót thành hình cái hoa ở 2 đầu. Để cho cây bông được đẹp, người ta lấy giấy kim tuyến quấn vào từng tua tre một, rồi buộc chỉ ngũ sắc vào... Hai cây bông được rước vào đình. Cướp cây bông diễn ra 2 đợt: trước tiên là lễ cướp thờ (không có giải), sau đó mới là lễ cướp giải. Tại lễ cướp thờ, khi ông mạnh bái tung cây bông lên thì 10 thanh niên quần đỏ, khăn điều, thắt lưng xanh xông vào cướp dưới sự hò la cổ vũ của dân làng. Tiếp đến là lễ cướp giải, tất cả mọi người đều tham gia. Cuộc cướp cây bông diễn ra rất vui, có khi kéo dài đến sáng. Ai được giải cướp cây bông thì được ăn bánh của người giải nhất cuộc thi bánh chưng. Thường thường, những người đoạt giải nhất cuộc thi cướp cây bông, cuộc thi nấu bánh chưng, nếu họ chưa vợ, chưa chồng thì được dân làng vun vén thành vợ, thành chồng. Người được trúng giải cướp cây bông thường được dân làng nể nang vì họ đã được diễm phúc của thần ban cho. Vì cướp cây bông vui nhất trong hội làng nên người ta cũng đặt thành câu ca để nhắc nhở nhau: Làng Kền(Kiền) có lễ cây bông Rước lên Dọc Muống hội đồng giao quan Mười một đánh bài giao quan Mười hai tế yến thì chàng phải sang... Còn trong hát đúm, thanh niên nam nữ thường tế nhị biểu thị tình cảm với nhau: - Mười hai nữ hội thi rồi Sao anh còn ở tại nơi sân đình Ngó ngang ngó dọc chi tình Đây mà thua cuộc trách mình lắm thay - Ai ơi đừng trách anh đây Cối đây mà giã bánh giầy thêm ngon. - Nếu ai thắng giải đình xuân Mình đây xin có tranh phần cây bông. Đình Kiền Bái là di tích lịch sử văn hoá có giá trị nghệ thuật cao, được Nhà nước xếp hạng cấp quốc gia năm 1986.

Hải Phòng 527 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu di tích Đền Nghè

Nằm ở trung tâm thành phố Hải Phòng thuộc phường Mê Linh (nay là phường An Biên, quận Lê Chân), đền Nghè là Di tích lịch sử văn hoá thờ nữ tướng Lê Chân. Bà quê ở làng An Biên (thuộc Đông Triều, Quảng Ninh) đã đến vùng đất nơi ngã ba sông Tam Bạc đổ vào sông Cấm, lập ấp Vẻn, sau đổi là An Biên Trang, hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (40 - 43) chống quân Đông Hán xâm lược. Bà là một nữ tướng tài ba, anh dũng, lập nhiều chiến công vang dội trong cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng được Trưng Vương phong chức Chương quản binh quyền nội bộ, giao trọng trách trấn giữ miền Hải Tần. Để tưởng nhớ công lao của nữ tướng, người lập ra làng An Biên xưa và đặt nền móng cho thành phố Hải Phòng ngày nay, nhân dân đã lập lên toà miếu An Biên thờ Bà. Buổi đầu chỉ là một ngôi miếu nhỏ lợp tranh, đến năm 1919, được xây dựng khang trang. Đền Nghè hiện nay là một công trình mang phong cách kiến trúc thời Nguyễn, đầu thế kỷ XX bao gồm: tam quan, toà bái đường, thiêu hương, hậu cung, giải vũ, nhà bia, nơi đặt tượng voi đá, ngựa đá. Sau lại làm thêm toà tứ phủ. Toà bái đường gồm 5 gian được nâng đỡ bởi 16 cột lim, kê trên 16 viên đá tảng đục đẽo công phu, tỉ mỉ. Chính giữa nóc nhà bái đường đắp nổi hàng chữ Hán lớn An Biên cổ miếu. Hậu cung gồm 3 gian, xây cao hơn nhà bái đường với thiết kế kiểu 2 tầng mái, làm tăng thêm sự bề thế, uy nghi của công trình. Nét đặc sắc của kiến trúc đền Nghè là nghệ thuật chạm khắc trên gỗ, đá. Với các đề tài long - ly - quy - phượng; tùng - cúc - trúc - mai... Thể hiện kỹ thuật chạm khắc bong hình, chạm nổi, chạm chìm đạt đến trình độ tinh xảo. Hiện nay, đền Nghè còn bảo tồn được nhiều tác phẩm điêu khắc trên đá rất có giá trị. Điển hình là tấm bia đá có kích thước lớn được tạc vào thời Nguyễn, ghi tiểu sử của nữ tướng Lê Chân. Toà bái đường treo khánh đá chạm nổi đề tài vũ hội long vân đường nét tinh vi, mềm mại, uyển chuyển. Ở toà thiêu hương có chiếc sập đá đồ sộ, tạo bằng khối đá liền, chạm nổi hình chim, thú, hoa, lá rất công phu. Tại toà hậu cung, tương Nữ tướng ngồi trên ngai thờ, đặt trong một khám lớn sơn son, thếp vàng với dáng vẻ uy nghi, đôn hậu, xinh đẹp. Hội đền Nghè được tổ chức từ ngày mồng 8 đến ngày mồng 10 tháng 2 Âm lịch, thu hút đông đảo du khách đến tham quan di tích, tưởng niệm nữ tướng Lê Chân.Là di tích lịch sử cấp quốc gia được Nhà nước xếp hạng vào năm 1975. Nguồn : Cổng thông tin điện tử thành phố Hải Phòng .

Hải Phòng 441 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử Đền Mõ

Đền Mõ xã Ngũ Phúc huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng - Nơi thờ Công chúa Quỳnh Trân đời nhà Trần - Được Nhà nước công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 1992. (Công nhận Di tích Lịch sử - văn hóa cấp Quốc Gia năm 1992) Ngọc phả triều Trần lưu rằng, Công chúa Quỳnh Trân là con gái vua Trần Thánh Tông - một ông vua hiếu đễ, nhân từ, trọng người hiền, sùng và hiểu thấu đạo phật. Khi Công chúa chào đời nghe trên không trung có tiếng tiêu thiều nhã nhạc, hương lan tỏa mùi sực lức…, lớn lên Công chúa sinh sắc như bình hạc, mặt tựa gương báu, thân thể mang vẻ hoa nở sáng trăng. Vốn giàu đức hạnh từ bi và lòng nhân ái cao thượng, lòng không muốn nhuốm bụi trần, Công chúa đã xin với vua cha cho xuất gia thờ phật. Năm Quý Mùi - 1283, trong một lần qua xã Nghi Dương, huyện Nghi Dương, phủ Kinh Môn thấy địa thế này giống như con chim đang bay, núi non, sông nước mênh mông, phong cảnh thanh tịch, cực lạc…Nơi đây có sức hút kỳ lạ khiến bà rời xa hoàng tộc, lá ngọc, cành vàng để “Mộ đạo từ bi dốc trí tu hành, cho thành quả phúc”. Công chúa đã lập ra điền trang thái ấp, cấp lương thực, tiền bạc, dạy dân khai khẩn ruộng nương, gieo hạt, ươm mầm, trồng dâu lấy tơ dệt vải. Mọi người đều vui vẻ như được sống ở cõi đài xuân. Để điều hành công việc hàng ngày của cộng đồng, Công chúa đã nghĩ ra cách lấy tiếng Mõ để làm hiệu lệnh điều hành công việc. Bắt nguồn từ sự việc trên, cái tên “Tổng Mõ, Chợ Mõ, Đền Mõ và Chùa Mõ” xuất xứ từ đó và đã đi vào huyền thoại gắn liền với mảnh đất và con người nơi đây. Trong những năm đất nước lâm nguy giặc Nguyên, Mông tràn sang xâm lược, Công chúa tỏ rõ là một nhà thao lược vẹn toàn. Với lòng yêu quê hương, đất nước, bà đã chiêu tập binh sĩ huấn luyện quân cơ, tích cóp lương thảo cung cấp cho Vua cha đánh đuổi quân xâm lược, góp phần tô thêm vào trang sử vàng son của dân tộc. Sau khi Công chúa viên tịch, nhớ ơn Người, nhân dân địa phương lập đền thờ và kế tiếp nhau lưu truyền hương khói. Đền là một quần thể sinh động, hiện còn lưu giữ 11 bản sắc phong của các triều đại phong kiến ghi nhận công lao đức hạnh của Công chúa (từ triều vua Trần Anh Tông năm 1314 đến Khải Định năm 1924). Đặc biệt, Đền còn có cây Gạo đại thụ do chính bàn tay Công chúa trồng vào năm 1284, hoa rực đỏ, cành lá xum xuê, là một trong những biểu tượng thiêng liêng của Công chúa còn lưu giữ đến ngày nay. (Cây gạo đại thụ Công chúa trồng năm 1284- Được Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam công nhận là Cây Gạo nhiều năm tuổi nhất Việt Nam) Phát huy truyền thông tốt đẹp đó, trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược, chiến tranh bảo vệ biên giới…Nơi đây còn là địa chỉ đỏ của các thế hệ người Ngũ Phúc trước khi lên đường luôn giữ vững niềm tin thắng giặc với lời thề: “Đứng bên đền Mõ mà thề - Không đánh tan giặc không về quyê hương”. Hằng năm đến ngày lễ hội truyền thống các thiện Nam, tín Nữ lại trang trọng các bộ đồ lễ hội, cùng với Nam thanh, Nữ tú, quý khách thập phương, ôn lại một truyền thống cực kỳ quý giá, đó là truyền thống uống nước nhớ nguồn, và cùng nhau thắp hương tưởng niệm người Công chúa tài, sắc vẹn toàn. Nguồn Thành đoàn Hải Phòng .

Hải Phòng 397 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Bà Đế

Hải Phòng là vùng đất gắn với nhiều di tích lịch sử nổi tiếng và linh thiêng. Trong đó, không thể không nhắc đến Đền Bà Đế - địa điểm du lịch tâm linh thu hút rất đông du khách cả nước đến tham quan và chiêm bái hàng năm. Đền Bà Đế không chỉ sở hữu cảnh quan sơn thủy hữu tình mà còn là câu chuyện về cuộc đời bi thương của người con gái hồng nhan bạc phận được tưởng thờ tại đây, đó là bà Đào Thị Hương (tức Bà Đế) - vợ chúa Trịnh Giang, đền Bà từng được vua Tự Đức về thăm và ban sắc phong “Đông Nhạc Đế Bà - Trịnh chúa phu nhân”. Tương truyền, vào năm 1718 ở phía đông nam vùng Ngọc Ðồ Sơn có đôi vợ chồng họ Ðào sinh ra một người con gái đặt tên là Ðào Thị Hương. Nhưng kỳ lạ thay, từ lúc sinh ra cho đến khi lớn lên, người con gái ấy luôn tỏa ra mùi hương thơm ngát, người phát ánh hào quang, đi đến đâu cũng có làn mây che đến đó. Có một ngày Chúa Trịnh Giang đi kinh lý Ðồ Sơn, khi dạo thắng cảnh đã xúc động trước tiếng hát truyền cảm cùng với vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành của Bà, Chúa yêu mến và quyến luyến không rời. Một thời gian sau, Bà mang thai, Hàng Tổng biết chuyện và bắt bố mẹ Bà phải nộp phạt. Nhưng vì nhà nghèo không có tiền nộp phạt, Hàng Tổng đem Bà dìm xuống biển. Trước khi chết, Bà khóc lóc, xót thương cha mẹ cũng như số phận của bản thân. Bà ngửa mặt lên trời khóc than rằng: “Phận gái thân cô, gặp Chúa yêu thương tôi đâu dám chống, nhìn mẹ cha, hàng xóm tôi đâu dám quên. Xin trời phật chứng giám cho lòng con. Khi con bị dìm xuống nước, nếu có oan ức, trời phật cho con nổi lên ba lần”. Quả nhiên bà nổi lên ba lần, mọi người ai nấy đều kinh sợ. Về sau, người dân trong vùng vẫn nghe tiếng bà than khóc trong gió biển: "Khi nào dây mục, cối tan thì mối hận thù này mới được gỡ bỏ”. Sau một tháng, thuyền hoa của chúa về rước bà về kinh. Biết chuyện Chúa Trịnh vô cùng đau khổ và thương tiếc cho Bà. Chúa Trịnh Giang đã cho xây đền, lập đàn giải oan cho Bà. Sự tôn nghiêm của ngôi đền bảo vệ ngôi làng khỏi những tên cướp biển và kẻ xấu. Đền Bà Đế có cấu trúc đơn giản nhưng trang nhã, được xây dựng tựa vào chân núi Độc, hướng ra biển bao la tạo nên một công trình độc đáo. Chính điện của Đền là nơi thờ Bà Đế và cha mẹ bà. Bên trái chính điện là bệ thờ Vua Biển. Cạnh đó là nơi thờ Vua Đất, Vua Núi và chúng sinh. Bên phải gian chính là bàn thờ Tam Tòa Thánh Mẫu - ba vị nữ thần cai quản đất trời sông núi. Đối diện với bàn thờ Tam Tòa Thánh Mẫu là bàn thờ Phật và Đức Đại Vương (Trần Quốc Tuấn) - danh tướng thời Trần. Ngay trước sân Đền là hình ảnh một chiếc thuyền, trên đó có tượng Bồ Tát, xung quanh là hình rồng càng làm tăng thêm vẻ tôn nghiêm nơi đây. Mỗi buổi chiều, khi mặt trời đã khuất sau rặng núi Độc, du khách có thể đứng dưới gác chuông của đền nhìn biển lăn tăn sóng, chiêm ngưỡng khoảnh khắc hoàng hôn buông xuống sẽ cảm thấy bình yên đến lạ. Từ sân đền rẽ về bên phải, du khách sẽ đến với một bãi đá đẹp và dài, bên phải con đường đi ra bãi đá là vách núi với hàng cây xanh mướt. Nguồn haiphongnew.gov.vn

Hải Phòng 367 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia Mở cửa

Đình làng Thạc Gián

Đình làng Thạc Gián được xây dựng từ rất lâu đời, thuở ban sơ ngôi đình làng được dựng lên bằng tranh tre, vào đời Minh Mạng, đình làng được làm lại bằng gỗ, mái lợp tranh. Theo nhiều tài liệu ghi chép, Làng Thạc Gián vốn ban đầu có tên là Thạc Giản và nhiều cách gọi khác như Thạch Giản, Thạch Gián là mảnh đất được khai phá sớm, vào khoảng nửa thế kỷ XV. Năm Tự Đức thứ bảy (1854), ngôi đình kiến tạo bằng gạch, mái lợp ngói âm dương và tiếp tục được tôn tạo vào năm Duy Tân thứ ba (1909), năm Khải Định nguyên niên (tức năm 1916) từ đóng góp của dân làng và đến năm 2009 được trùng tu một lần nữa từ nguồn ngân sách thành phố với kinh phí hơn 4 tỷ đồng. Người đầu tiên được nhân dân ghi nhận công lao dẫn đoàn người từ Bắc vào đây khai canh là ông Huỳnh Văn Phước. Sau đó, các bậc tiền nhân của các Tộc: Nguyễn, Lê, Ngô, Phạm, Trương, Trần đã tiếp tục khai canh, khai cư xây dựng nên Làng Thạc Gián ngày càng trù phú và đông đúc. Trong quá khứ, Thạc Gián là một làng rộng. Cho đến đầu thế kỷ XIX, địa giới: Đông giáp làng Hải Châu và thẳng đến Vũng Rong; Tây giáp làng Xuân Đán, vịnh Đà Nẵng và Nam giáp các làng Bình Thuận, Liên Trì (nay thuộc phường Hòa Thuận Đông, Hòa Thuận Tây, quận Hải Châu). Mái đình lợp ngói âm dương, bờ nóc được trang trí hình “lưỡng long triều nguyệt” ghép bằng sành sứ, các bờ góc được trang trí hình rùa và phượng. Diềm mái hiên gắn đĩa men lam Huế. Đình có hai bộ phận kiến trúc chính là nhà chính điện và hậu tẩm nối liền phía sau. + Chính điện có mặt bằng rộng, có bốn bộ vì kèo theo kiểu thức nhà ba gian hai chái, với năm hàng chân cột, mỗi hàng sáu cột, kê bằng hai lớp đá tảng: lớp trên hình bát giác, lớp dưới hình quả bí. Hậu tẩm được xây dựng bằng gạch, vôi vữa theo lối vòm cuốn tạo lâu giả vươn cao. Hậu tẩm là nời thờ thần Thành hoàng làng và Phi vận tướng quân Nguyễn Phục. Đáng chú ý ở trước sân đình, hai bên bình phong có cặp voi phục được xây bằng gạch, vôi vữa chầu vào chính điện. Về phía Đông Bắc của đình là miếu âm linh, phía sau đình có một nhà hồi hương được xây dựng bằng gạch, vi kèo, đòn đông bằng gỗ, mái lợp ngói âm dương, nền lát gạch… Nơi đây, ngày xưa là nơi hội họp của các bậc kỳ lão, hương thân, chức sắc. Hai gian tả, hữu mọi người dự họp tùy theo thứ bậc, tuổi tác mà ngồi trước hoặc sau. Đây là nơi để các vị chủ tế, bồi tế, học trò gia lễ, các chấp sự…chuẩn bị lễ phục trước khi vào tế lễ. Sau khi tế lễ, nhà hồi hương còn được dùng làm nơi dân làng ăn cỗ. – Nhà trù: là gian nhà dùng làm bếp của đình làng. Nhà trù được xây kế tiếp về phía bên tả của nhà hồi hương. Nhà trù chỉ xây tường gạch, mái ngói. Giếng nước: giếng nước được đào bên cạnh nhà trù. Xưa kia, đây là giếng xây đầu tiên và duy nhất, rất sâu, nước giếng trong nên ngoài việc phục vụ cho đình làng thì bà con trong làng còn đến lấy nước về dùng trong các dịp lễ, tết hoặc ngày cúng kỵ của gia đình. Theo những người cao tuổi trong làng thì đây là một trong ba giếng cổ của tổng Bình Thới Hạ. Đó là các giếng Bộng (tại làng Bình Thuận – nay thuộc phường Bình Hiên, Quận Hải Châu); giếng chùa Từ Vân (nay thuộc phường Vĩnh Trung, Quận Thanh Khê). Trải qua nhiều biến cố lịch sử, đình Thạc Gián là một trong số ít những ngôi đình ở Đà Nẵng còn lưu giữ được những hiện vật hết sức có giá trị: 18 sắc phong và 38 chiếu, chỉ của các triều đại Hậu Lê và Triều Nguyễn, được hình thành với những nét kiến trúc đặc thù. Trong đó, sớm nhất là sắc năm Minh Mạng thứ 7 (1826) và muộn nhất là sắc phong năm Bảo Đại thứ 10 (1935). Trong quá khứ, đình Thạc Gián là nơi tổ chức và duy trì nhiều lễ hội truyền thống của dân làng, như lễ tế Thu nhị kỳ, lễ hội vào tiét Thanh minh, lễ giỗ tiền hiền, lễ hội tết Nguyên đán, hội thi đọc khánh chúc, diễn tuồng… và nhiều sinh hoạt dân gian khác. Đình Thạc Gián được Bộ Văn hoá Thể thao công nhận Di tích cấp quốc gia vào ngày 27/8/2007. Ngày 17/4/2011 (tức mùng 10 tháng 3 âm lịch), tại đình làng Thạc Gián, lần đầu tiên lễ hội đình làng đã được phục dựng lại và tổ chức với quy mô trọng thể. Đình Thạc Gián hiện ở tại tổ 7, phường Chính Gián, Quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Nguồn: Tuổi Trẻ Phường Chính Gián

Đà Nẵng 831 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Nghĩa địa I-pha-nho

Đà Nẵng có một di tích tồn tại gần 160 năm ghi dấu cuộc chiến tranh phi nghĩa của quân viễn chinh và khả năng kháng chiến của quân dân ta chống xâm lược. Di tích này là chứng tích một thời của lịch sử Đà Nẵng. Đó là nghĩa địa I-pha-nho, nơi chôn cất 32 lính Pháp và Tây Ban Nha bỏ mạng khi xâm lược Việt Nam từ 1858 đến 1860. Đến cuối đường Yết Kiêu (Quận Sơn Trà) gần khu du lịch Tiên Sa, không khó để tìm thấy khu nghĩa địa ở trên sườn đồi khá bằng phẳng, trước đây người Pháp gọi là đồi Hài cốt. Người dân ở đây quen gọi là khu Mả Tây. Khu mộ đã được dẫy cỏ, gọn ghẽ, tường đá xây dựng chắc chắn. Bên ngoài tường rào là các loại cây sứ, cau lên xanh mát. Nhà nguyện được sơn mới sáng sủa. Ngôi nhà này bề ngang 3,5m, dài 12m, cao 4m, gồm một cửa chính và hai cửa sổ. Trên bàn thờ theo nghi thức công giáo, đặt tấm phù điêu Tây Ban Nha. Có một nồi nhang nhỏ với nhiều chân nhang cắm dày. Hiện còn lại 18 ngôi mộ nhỏ và 14 ngôi mộ lớn. Trong số đó có những ngôi mộ mà bia đá còn rõ chữ để đọc như mộ Casoon Cabandon, thuộc đại đội 14 chết ngày 8-8-1859; Don Juan Romani chết trận tháng 9-1858; Labra Anton, Đại úy công binh sinh ở Lille 1820 chết ở Đà Nẵng 1858... Theo tài liệu, khi những phát đại bác đầu tiên của liên quân Pháp - Tây Ban Nha bắn vào các pháo đài phòng thủ của quân Việt Nam ở Đà Nẵng vào sáng 1-9-1858, mở đầu cuộc xâm chiếm nước ta, bọn xâm lược đã gặp phải sức kháng cự quyết liệt của quân và dân ta. Cho đến hết năm 1858, chúng vẫn không sao thực hiện được mục đích mở rộng địa bàn chiếm đóng, phá vỡ thế phòng thủ của ta, nhằm tạo một bước ngoặt cho cuộc chiến tranh. Tướng chỉ huy liên quân lúc bấy giờ là Đô đốc Rigault de Genouilly bèn quyết định chuyển hướng tiến công vào Gia Định. Đầu tháng 2-1859, chúng chỉ để lại ở Đà Nẵng một đại đội lính và vài chiến hạm, số quân còn lại được chuyển vào đánh chiếm Gia Định. Ngày 8-5-1859, Rigault de Genouilly đưa quân quay lại Đà Nẵng, mở một cuộc tấn công quy mô, hòng đảo ngược tình thế và tính cả chuyện đánh ra Huế. Nhưng ý đồ này rốt cuộc đã thất bại. Tháng 2-1860, tướng Page buộc phải cho người xin cầu hòa với ta để thực hiện kế hoãn binh. Sau đó, quân Pháp ở đây được lệnh rút đi chi viện cho chiến trường Trung Hoa. Như vậy, sau gần 19 tháng chiến tranh, quân Pháp đã thất bại trong mưu đồ đen tối của chúng ở chiến trường này, phải cuốn gói và để lại chứng tích “một tháp hài cốt chứa ngàn thánh giá”. Không có con số thống kê đầy đủ tổn thất của giặc, nhưng những nấm mồ quân viễn chinh chôn rải rác khắp chân núi bán đảo Sơn Trà thì vẫn còn đó. Năm 1895, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer đã cho dời hơn 40 mộ sĩ quan đến một gò cao và xây tại đây một nhà nguyện, có tường bao quanh. Dưới nền nhà nguyện là một hầm đào sâu để xếp các hộp sắt đựng hài cốt các binh sĩ bốc từ các nơi đưa về. Trên tấm bia đá dựng ở phía trước còn ghi dòng chữ rõ nét: “À la mémoire des Combattants Francais et Espagnols de l'Expédition Rigault de Genouilly mort en 1858, 1859, 1860, et ensevelis en ces lieux” (Để tưởng nhớ các chiến sĩ Pháp và Tây Ban Nha trong đội quân viễn chinh của Rigault de Genouilly đã chết vào những năm 1858, 1859, 1860 và được chôn tại nơi đây). Nguồn: Báo công an Đà Nẵng

Đà Nẵng 630 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp thành phố Mở cửa

Quốc Tự Tam Thai

Nằm trong quần thể danh thắng Ngũ Hành Sơn, trên ngọn Thủy Sơn, chùa Tam Thai là ngôi chùa cổ nhất tại thành phố Đà Nẵng. Chùa Tam Thai được xây dựng lần đầu tiên năm 1630 có tên chữ là Tam Thai tự. Đến thời Tây Sơn, chùa đã bị hư hại hoàn toàn. Năm 1825, thời vua Minh Mạng, chùa được xây dựng lại và dưới thời nhà Nguyễn, chùa được sắc chỉ là Quốc Tự. Diện mạo của chùa ngày hôm nay đã có sự thay đổi so với ban đầu bởi trải qua nhiều lần trùng tu trong khoảng thời gian từ năm 1907 đến năm 1995. Hiện, tại chùa vẫn còn lưu giữ được tấm biển Tam Thai Tự và tấm kim bài hình trái tim lửa khắc theo ngự bút của vua Minh Mạng với nội dung ca ngợi Phật pháp vô lượng từ bi phổ độ chúng sinh... Bởi kiến trúc đẹp và cổ kính lại nằm trong quần thể danh thắng Ngũ Hành Sơn, do vậy chùa Tam Thai hàng ngày đều có rất đông du khách tìm đến chiêm bái, dâng hương. Từ chân ngọn núi Thủy Sơn, du khách theo những bậc thang đã in dấu thời gian để lên Tam Thai. Chùa có 3 tầng: Tầng thứ nhất ở về phía Bắc gọi là Thượng Thai. Tầng thứ hai ở về phía Nam gọi là Trung Thai. Tầng thứ ba ở về phía Đông gọi là Hạ Thai. Kiến trúc chùa Tam Thai có cổng Tam Quan, chùa chính, khu vực hành cung nhà thờ tổ và các công trình nghệ thuật khác. Phía trước chùa Tam Thai là một khoảng sân rộng, có cây cao tỏa bóng mát khắp mặt sân. Cổng Tam quan được làm theo kiểu lầu chuông lợp mái trông rất cổ kính. Khi qua cổng Tam quan và tới sân trong, pho tượng phật Di Lặc sẽ là hình ảnh đầu tiên du khách nhìn thấy. Pho tượng được chạm từ đá sa thạch, kích thước khá lớn. Hai bên sân là hành cung, nơi vua Minh Mạng cho xây dựng làm chỗ nghỉ ngơi mỗi khi đến vãn cảnh chùa. Chùa chính nằm phía sau khoảng sân này. Chùa được xây bằng gạch, quay mặt về hướng Nam. Mái ngói lưu ly, nóc trang trí lưỡng long chầu nguyệt, các cột đều trang trí rồng - phụng. Hai bên vách Tiền đường tạc phù điêu Tả Phù và Hữu Bật - là hai vị thần canh giữ chùa. Chính điện chùa thờ Phật A Di Đà, Quan Thế Âm Bồ Tát và Đức Đại Thế Chí. Nhìn chung, tổng thể cảnh quan kiến trúc chùa được xây dựng theo hình chữ Vương với nhiều đường nét mang tính thẩm mỹ cao. Theo đánh giá của các nhà lịch sử, kiến trúc thì Tam Thai tự là đặc trưng của kiến trúc chùa thời nhà Nguyễn. Bên cạnh những công trình chính, chùa Tam Thai còn có tháp Vọng Giang hay còn gọi là Vọng Giang Đài. Đây là điểm cao nhất ở ngọn núi Thủy Sơn, nếu đứng từ đây, du khách có thể nhìn cả một vùng bao la rộng lớn, bao quát cảnh hùng vĩ của Ngũ Hành Sơn, xa xa là con sông Hàn, sông Cẩm Lệ quanh co. Mặc dù kiến trúc chùa hiện nay mang phong cách kiến trúc đặc trưng của Nhà Nguyễn bởi đã qua nhiều lần tu sửa, song Tam Thai tự vẫn được coi là ngôi chùa cổ tại Đà Nẵng bởi công trình tâm linh này đã được khởi công xây dựng từ năm 1630. Với giá trị lịch sử to lớn, chùa Tam Thai đã được công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia. Nguồn: Báo điện tử Tổ Quốc

Đà Nẵng 657 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chợ Bến Thành

Lịch sử hình thành Chợ Bến Thành gắn liền với thăng trầm của đô thị Sài Gòn – Chợ Lớn. Chợ được khởi công xây dựng từ năm 1912, trải qua nhiều lần trùng tu, di dời mới có được diện mạo và vị thế hôm nay. Ban đầu, chợ nằm bên bờ sông Bến Nghé, nơi có một bến sông để quân lính và người dân ra vào thành Gia Định (Quy Thành, thành Bát Quái), vì thế nên gọi là Chợ Bến Thành. Sau cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi (1833-1835), thành Gia Định bị phá bỏ, Chợ Bến Thành cũng hoang vắng. Sau khi người Pháp tấn công Sài Gòn (tháng 2-1859), chợ bị thiêu rụi hoàn toàn. Năm 1860, người Pháp cho xây lại Chợ Bến Thành ở địa điểm cũ. Sau nhiều lần trùng tu, ngôi chợ dần khang trang hơn với hệ thống cột gạch, sườn sắt, mái ngói, .. Đến đầu thế kỷ XX, người Pháp cho xây lại Chợ Bến Thành mới tại vị trí ngày nay trong khoảng thời gian 1912-1914, cửa nam có gắn chiếc đồng hồ mang tính biểu tượng. Phía trước cửa chính (cửa nam) là Bùng binh Chợ Bến Thành, còn gọi là Công trường Diên Hồng, Quảng trường Quách Thị Trang... Đến năm 1952, khi tu sửa chợ người ta cho gắn 12 bức phù điêu của xưởng mỹ nghệ Biên Hòa ở bốn cửa chợ. Từ đó đến nay hình ảnh Chợ Bến Thành trở nên quen thuộc, gần gũi, trở thành một miền ký ức văn hóa đô thị của thành phố. Nguồn: Báo điện tử Pháp Luật thành phố Hồ Chí Minh

TP Hồ Chí Minh 634 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp thành phố Mở cửa

Điểm di tích nổi bật