Di tích lịch sử

Việt nam

Đền Ngọc Hoa

Đền Ngọc Hoa nằm giữa Trung tâm thôn Văn Tảo, xã Thanh An, đền ngự trên một thế đất đẹp, cổng quay hướng nam, lưng tựa vào thế chảy của dòng sông Rạng. Năm Khải Định thứ 9 có ghi: Sắc chỉ cho xã Văn Tảo phụng sự, phong cho Ngọc Hoa là bậc tôn thần chính trực, dịu dàng, giúp nước che chở cho dân, cho phép dân bản phụng sự thần. Đến tháng 2 năm 1994 đền được Bộ văn hóa – Thông tin cấp bằng di tích lịch sử cấp quốc gia. Để tưởng nhớ người con gái tuyệt sắc giai nhân Ngọc Hoa có tình yêu chung thủy với chồng là Phạm Tải. Hằng năm vào các ngày từ mùng 4 đến mùng 6 tháng 2 âm lịch, địa phương đều tổ chức Lễ hội truyền thống với nhiều hoạt động sôi nổi, mang đậm những giá trị văn hóa tâm linh độc đáo. Đền Ngọc Hoa ngự tại thôn Văn Tảo đã mấy trăm năm. Lúc đầu chỉ là ngôi miếu thờ, sau nhân dân thập phương góp công của cải tạo nâng cấp dần. Được sự giúp đỡ của ngành văn hóa - thông tin và công sức của nhân dân xã Thanh An và cả những người con quê hương xa xứ, đến nay, ngôi đền đã trở thành một khu di tích có tầm cỡ đẹp bậc nhất ở khu vực. Đền có diện tích 3.640m2. Phía ngoài là một công viên rộng gần 1.000m2 với nhiều cây đại thụ làm nên một quang cảnh bề thế thoáng đẹp. Khu hồ của đền có diện tích 3.490m2 tạo nên một không gian tĩnh lặng êm đềm. Đền có quần thể nhiều ngôi nhà kiến trúc đẹp, có sân thượng, có tả vu, hữu vu và hậu cung. Ngoài một số bia khắc chữ Hán dựng ở cổng đền và quanh khu vườn, trong khuôn viên còn tồn tại một số ngôi mộ chưa được xác định tính danh. Vào năm 1980, người ta đã khai quật một ngôi mộ cổ, phát hiện hài cốt một người con gái quấn nhiều lớp vải. Bấy giờ bảo tàng chưa xác định nguồn gốc hài cốt. Gian ngoài đền Ngọc Hoa có kiến trúc đẹp, mái cong lượn, cột dựng trên các phiến đá. Phần hậu cung như một cái am lớn, 2 cửa lách ra vào chỉ cao chừng đầu người. Tượng Ngọc Hoa đặt giữa bàn thờ trên cao. Bức tượng không lớn, cao chừng 60 phân nhưng được tạc khá tinh xảo: khuôn mặt tròn, mắt sáng, mũi cao, đôi má ửng hồng toát lên vẻ long lanh, đoan trang mà thanh thoát của một mỹ nữ nơi thôn dã. Theo người coi đền thì bức tượng đã có từ lâu lắm, không ai nhớ rõ nguồn gốc. Đền Ngọc Hoa và hội đền Ngọc Hoa với nghi lễ linh thiêng sùng kính, một tính ngưỡng tôn vinh giá trị truyền thống, ghi nhận công lao của tướng công Trần Công đã có công đánh giặc giữ nước; đồng thời đề cao giá trị đạo đức thủy chung tiết hạnh cần được tôn tạo, giữ gìn. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Thanh Hà , tỉnh Hải Dương.

Hải Dương 142 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Cả

Chùa Cả ở xã Tân An (Thanh Hà) được công nhận là di tích lịch sử văn hóa, kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia vào năm 1994. Nơi đây còn lưu giữ nhiều cổ vật quý. Chùa Cả có tên chữ là Đại Từ Khâm Thiên tự. Theo sử sách, chùa được xây dựng từ thời Hậu Lê, trùng tu lại với quy mô rộng từ năm 1881. Chùa Cả thờ vua Lý Nhân Tông. Tương truyền vua Lý Nhân Tông từng đóng đồn nơi đây để đi đánh giặc. Chùa còn thờ Phật hoàng Trần Nhân Tông mà nhân dân ở đây tôn là Thánh. Do đó, chùa Cả có hai chức năng vừa là đền, vừa là chùa. Chùa có kiến trúc kiểu chữ đinh gồm 5 gian tiền đường dài 21 m, rộng 7,5 m và 3 gian hậu cung dài 10,9 m, rộng 8,5 m. Điểm khác biệt của chùa Cả là tòa tiền tế có kiến trúc như ở đền, các góc đao cao vút, các bức phù điêu hình rồng được bàn tay khéo léo của nghệ nhân xưa chạm khắc tinh xảo... Hằng năm cứ vào ngày 30 tháng 10 và 1 tháng 11 âm lịch, xã Tân An lại tổ chức lễ dâng hương tưởng nhớ Phật hoàng Trần Nhân Tông và vua Lý Nhân Tông, cầu cho mưa thuận gió hòa, sản xuất thuận lợi, cuộc sống của người dân ngày càng sung túc. Vào những ngày này, nhiều người xa quê hương cũng về hội chùa. Từ khi xếp hạng di tích lịch sử văn hóa, kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia đến nay, ngôi chùa đã được trùng tu, tôn tạo lại với kinh phí hơn 2 tỷ đồng. Số tiền này do người dân nơi đây và du khách thập phương công đức, đóng góp. Nhân dân đã đóng góp hàng nghìn ngày công để tu sửa, xây dựng các hạng mục công trình trong khuôn viên chùa. Đến nay, khu di tích đã khang trang hơn nhưng vẫn giữ được hồn cốt linh thiêng, cổ kính. Chùa hiện có thêm tòa tam quan, phục hồi một số pho tượng, đồ thờ tự. Trong sân chùa đặt nhiều cây cảnh, hoa, tạo không gian tĩnh lặng, trong lành, hấp dẫn du khách. Chùa Cả còn lưu giữ nhiều cổ vật quý. Người có công gây dựng, phục hồi lại một số hạng mục của ngôi chùa là sư thầy Thích Quảng Nghiêm, hiện là trụ trì chùa. Chùa trước đó chưa có người chính thức trụ trì mà giao cho địa phương quản lý. Năm 2012, thầy Thích Quảng Nghiêm về tiếp quản chùa, trong khuôn viên còn nhiều chỗ bị bỏ hoang. Sau khi tiếp quản, sư thầy Quảng Nghiêm đã phân loại từng cổ vật và gìn giữ cẩn thận. Ngôi chùa còn giữ được tượng Phật A Di Đà cao gần 2,7 m (không kể bệ và đài sen). Đây là một trong những pho tượng gỗ cổ lớn của cả nước. Tượng được tạo dựng dưới thời Nguyễn, ghép liền nhau bởi những mảnh gỗ mà nhìn qua khó có thể nhận biết chỗ ghép nối. Tượng Phật với tư thế ngồi tọa thiền trên đài sen. Tuy có từ lâu đời nhưng nước sơn và chất liệu gỗ mít vẫn còn bền bỉ theo thời gian, chưa có dấu hiệu bị mục. Nơi đây còn lưu giữ 1 tháp đá cao 5 tầng ngay trước tiền đường. Hai tầng trên của tháp đá uốn đầu hình mai luyện, bốn góc uốn cong hình đầu long, trên đỉnh tháp có hình đài hoa đặt trên những cánh hoa sen đang nở. Đây cũng là tháp đá cổ quý hiếm mà ít chùa có được. Theo người già trong làng, chính tháp đá là nơi đặt xá lợi của Phật hoàng Trần Nhân Tông. Trong khuôn viên chùa còn có nhiều tháp lăng mộ của các trụ trì qua nhiều đời, được chạm khắc với những đường nét cầu kỳ. Chùa còn có 5 tấm bia đá quý có giá trị, niên đại từ năm 1874-1933 ghi lại dấu tích từng thời kỳ lịch sử bằng tiếng Hán. Bên giếng chùa có đôi cá sấu đá từ thế kỷ 17 do nghệ nhân xưa chạm khắc, đường nét tinh tế. Chùa còn lưu giữ 11 sắc phong từ thời Lê, thời Nguyễn và 1 chiếc chuông đồng cao 1,2 m, đường kính miệng 56 cm. Trên chuông có chạm khắc những bài vịnh ca ngợi cảnh đẹp của chùa và người công đức đúc chuông. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Thanh Hà , tỉnh Hải Dương.

Hải Dương 138 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu Du lịch Khuôn Thần

Rừng Khuôn Thần có diện tích khoảng 800 ha, trong đó có 300 ha rừng tự nhiên và 500 ha là rừng trồng, rừng tái sinh và đồng cỏ. Hồ Khuôn Thần rộng 240 ha, được bao bọc bởi những rừng thông, tràm, keo tai tượng tươi tốt quanh năm. Lòng hồ có 5 đảo nhỏ là những vùng đồi bát úp nổi lên giữa làn nước xanh, các đảo đều được trồng thông có tuổi từ 15 – 20 năm. Khuôn Thần còn nổi tiếng với những trang trại vườn cây ăn quả ngút ngàn tầm mắt, với đền Từ Mã thờ danh tướng đời Trần đã được Nhà nước xếp hạng di tích và nhiều nét đẹp văn hoá truyền thống của các dân tộc thiểu số như: Sán Chí, Cao Lan, Nùng, Tày… Đến Khuôn Thần, du khách sẽ có cơ hội khám phá “lá phổi xanh của miền Lục Ngạn” với 5 đảo thông xanh tốt quanh năm, đồng thời du thuyền trên mặt hồ, ngắm cảnh trời mây non nước. Đặc biệt, vào mùa mưa, du khách có thể quan sát nước chảy từ đỉnh đập Khuôn Thần đổ ào ào xuống thung lũng ven hồ. Du khách đến Khuôn Thần không chỉ được dạo chơi trên hồ bằng thuyền mà còn được ghé thăm các trang trại vườn cây ăn trái xanh tươi rộng ngút ngàn tầm mắt. Đây cũng là cư trú, nuôi dưỡng và bảo tồn những giá trị văn hoá độc đáo của đồng bào dân tộc thiểu số như: người Sán Chí, Cao Lan, Tày, Nùng… Tới đây, du khách sẽ có cơ hội thưởng thức hương vị ngọt ngào của những đặc sản: mật ong, rượu tắc kè, hạt dẻ, vải thiều, hồng, na… của đồng bào các dân tộc như Kinh, Cao Lan, Tày, Sán Chỉ, Nùng. Đặc biệt phải kể đến là món cá. Ai đã từng thưởng thúc món cá bống nướng trên bếp than của đồng bào dân tộc nơi đây thì không thể nào quên. Nếu những ai thích cảnh hoang dã chốn “thần tiên” thì có thể ghé thăm các đảo nổi là những vùng đồi bát úp nổi lên giữa lòng hồ. Không gian tĩnh lặng, bình yên, trữ tình rất hợp cho những câu chuyện tâm tình trên thảm cỏ xanh… dưới những hàng thông vi vu trong gió mát. Những khi cảm thấy mệt mỏi bạn có thể thấy ngay những cánh võng đu đưa dưới những gốc cây trong vườn nhãn. Bạn có thể vừa nằm võng, vừa thưởng thức hương vị ngọt đậm đà của những chùm vải thiều chín mọng. Không những thế, đến đây du khách còn được tham quan đền Từ Mã thờ danh tướng đời Trần đã được Nhà nước xếp hạng Di tích. Đặc biệt, nếu qua đêm ở đây vào những dịp nông nhàn, du khách sẽ có cơ hội tham dự các buổi sinh hoạt văn hoá truyền thống với những điệu hát soong hao, si, lượn... làm say đắm lòng người của đồng bào dân tộc ít người sinh sống quanh khu vực hồ. Vui thú nhất là chẳng phải đến tận Đà Lạt mới có thể nghe tiếng thông reo rì rào, mà còn được khám phá sự kỳ thú của thiên nhiên hoang dã với những con đường mòn vắt qua các sườn núi, khe suối trong vắt quanh co, uốn khúc. Khuôn Thần hiện có nét đẹp hoang sơ rất gần với thiên nhiên tạo một sức hút lớn đối với mọi du khách. Tuy nơi đây chưa xuất hiện những khách sạn sang trọng, những nhà hàng, nhà nghỉ với đầy đủ tiện nghi… nhưng du khách sẽ có cảm giác thoải mái, nhẹ nhàng. Vào những ngày Xuân, Hè du khách đến đây có thể được vơi đi những suy tư, phiền muộn. Thong thả đi dạo hồ, đắm mình vào bầu không gian mênh mông của mặt nước hồ xanh biếc, in bóng mây trời và và ngắm cảnh chiều hoàng hôn có bầy trẻ đuổi từng đàn trâu về, thật quyến rũ và lãng mạn. Vào những buổi Thu, Đông du khách có thể thả mình bên những chiếc cần câu, thư giãn bồng bềnh trên lòng hồ, đầm ấm bên những bếp lửa, cùng thưởng thức những vật phẩm mà mình thu hoạch được từ tự nhiên và ngắm mặt nước tĩnh lặng, cảm nhận sự khoan khoái những đợt gió heo may lùa thổi… Hồ Khuôn Thần cũng là nơi rất thích hợp để xây dựng những trung tâm nghỉ dưỡng, khu vui chơi giải trí với các loại hình mới, như: chèo thuyền, leo núi, đi bộ dạo quanh hồ và vào thăm các làng bản của đồng bào dân tộc… Sau cuộc du ngoạn đầy kỳ thú và mệt mỏi, du khách có thể thư giãn bồng bềnh trên những con thuyền mộc lướt trên mặt nước lăn tăn sóng, hòa mình cùng thiên nhiên, lắng nghe chim hót, nhìn những khóm hoa rừng khoe sắc, được nghe những làn điệu dân ca mượt mà, đằm thắm. Và khi đó, du khách sẽ cảm thấy thú vị, lâng lâng như lạc vào cõi hư vô, huyền ảo nơi sơn trang rộng lớn… NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TỈNH BẮC GIANG

Bắc Giang 146 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia Mở cửa

Khu du lịch tâm linh sinh thái Tây Yên Tử

Đến với Bắc Giang, một trong những điểm du lịch không thể bỏ qua đó là Khu du lịch tâm linh sinh thái Tây Yên Tử. Đây là điểm đến cuối cùng trong hành trình Tour du lịch tâm linh theo con đường bộ hành hoằng dương Phật pháp của Phật Hoàng Trần Nhân Tông và các đồ đệ qua những điểm chùa, tháp dọc sườn tây dãy núi Yên Tử. Khu Du lịch Tâm linh - Sinh thái Tây Yên Tử thuộc thị trấn Tây Yên Tử huyện Sơn Động tỉnh Bắc Giang, cách TP Hà Nội khoảng 140km về hướng Đông Bắc. Từ Hà Nội, quý khách di chuyển theo tuyến cao tốc Hà Nội – Bắc Giang, đến nút giao TP Bắc Giang thì rẽ phải vào tỉnh lộ 293 - đường Tây Yên Tử (hay còn gọi là đường tâm linh), đi theo biển báo chỉ dẫn khoảng 70km là đến Khu Du lịch. Khi nói tới Tây Yên Tử phải nói tới dòng thiền Trúc Lâm. Thiền phái Trúc Lâm là dòng thiền mang triết lý thuần Việt, do Phật Hoàng Trần Nhân Tông sáng lập ở thế kỷ XIII. Thiền phái Trúc Lâm là linh hồn của hệ thống non thiêng Yên Tử, nó trở thành niềm tự hào của mỗi người dân đất Việt. Hành hương về Tây Yên Tử, du khách vừa được chiêm bái thắng tích tôn giáo nổi tiếng và cảm nhận vẻ đẹp bình yên, thơ mộng của vùng đất Bắc Giang. Núi Yên tử nằm trên cánh cung Đông Triều ôm gọn vùng đông bắc Việt Nam, sườn đông chủ yếu thuộc tỉnh Quảng Ninh, sườn tây thuộc các huyện Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam và Yên Dũng tỉnh Bắc Giang. Hiện tại khu vực Tây Yên tử còn lưu lại nhiều di tích, công trình lịch sử-văn hóa liên quan đến tôn giáo, gắn liền với quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, nhất là vào thời Lý-Trần. Với hệ thống các chùa tháp, di tích lịch sử-văn hóa và sự kỳ vĩ của núi rừng trùng điệp, thảm thực vật và nhiều loài động vật phong phú đã tạo nên một Yên Tử đầy tiềm năng. Cùng với Đông Yên Tử của Quảng Ninh, Tây Yên Tử Bắc Giang được phối hợp, kết nối thành quần thể danh thắng Yên Tử thống nhất, tạo điều kiện cho phát triển du lịch, phát huy các di sản văn hóa mà cha ông ta để lại. Khu du lịch Tây Yên Tử được khởi công xây dựng năm 2014 và đưa vào khai thác giai đoạn I năm 2019. Khu du lịch được ưu ái nằm bên khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tửvới hàng nghìn hecta rừng nguyên sinh cùng nhiều loài động vật hoang dã. Đây chính là lợi thế trong việc mang đến cho du khách cả nước những trải nghiệm khác biệt trong suốt quá trình tham quan, hành hương về vùng đất Phật. Quy hoạch tổng thể của KDL được chia thành 02 phân khu chức năng: phân khu tham quan sinh thái – tâm linh và phân khu nghỉ dưỡng sinh thái – giải trí. Phân khu tham quan sinh thái – tâm linh gồm các hạng mục chính như: quảng trường trung tâm, vườn ngũ hành, đồi vô cực – hệ thống 10 bức tượng tái hiện hành trình cuộc đời Phật hoàng, tuyến cáp treo, chùa Hạ và chùa Thượng. Ngoài ra, ở phân khu này còn có một số công trình dịch vụ khác như bãi đỗ xe, hồ điều hòa, nhà hàng ven suối… NGUỒN SỞ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH BẮC GIANG TRUNG TÂM THÔNG TIN - XÚC TIẾN DU LỊCH

Bắc Giang 147 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia Mở cửa

Động Thiên Thai- Đền thờ Kỳ Đồng Nguyễn Văn Cẩm

Động Thiên Thai- Đền thờ Kỳ Đồng Nguyễn Văn Cẩm Động Thiên Thai cách thành phố Bắc Giang khoảng 35km về phía Tây Bắc, trước năm 1945 thuộc xã Đồng Kỳ, tổng Hương Vỹ, phủ Yên Thế, nay thuộc xã Hồng Kỳ, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. Đây là một khu đồn điền lớn thuộc xã Đồng Kỳ và Hồng Kỳ ngày nay. Thất diệu đồn điền được bố trí tựa như 7 ngôi sao sáng của chòm sao Bắc Đẩu, gồm bảy khu (hay bảy trại), gồm: trại nhất, trại nhì, trại ba, trại tư, trại năm, trại sáu và khu Động Thiên Thai. Thiên Thai là nơi tiên thánh ở hay cõi tiên. Kỳ Đồng đặt ra tên gọi này nhằm đánh lạc hướng bè lũ thực dân, làm chúng nhầm tưởng ông đến đây chỉ để vui thú nhàn du với ảo ảnh linh dị thần bí, nhưng thực ra Thiên Thai là trung tâm và các trại quây quần quanh vùng, đồng thời có sự liên hệ chặt chẽ với nghĩa quân Yên Thế. Bảy trại này sắp xếp dọc 2 bên đường từ Đồng Kỳ đi Đồng Vương. Từ đây tới Phồn Xương- đại bản doanh của Đề Thám chừng 4 km. Động Thiên Thai xưa vốn chỉ là khu nhà tranh nhỏ bé được Kỳ Đồng xây dựng lên. Sau đó chính nhân dân lại biến nó thành đền thờ phụng Kỳ Đồng (sau khi ông mất). Đền ngoảnh hướng Nam, nằm ở Trại Nhất phía trước có đường liên xã, kề cạnh là đường tỉnh lộ 398 và tuyến đường sắt nối ngã tư Kép (huyện Lạng Giang) với tỉnh Thái Nguyên. Phía sau đền là dòng sông Sỏi chảy dọc theo hướng Tây Nam về Bố Hạ. Đền có bố cục theo kiểu chữ đinh (J), gồm toà tiền đường 5 gian và hậu cung 2 gian. Kết cấu khung chịu lực bằng gỗ, kiểu dáng kiến trúc khung mái đơn giản kiểu kẻ truyền, trụ giá chiêng được bào trơn đóng bén, không chạm khắc hoa văn cầu kỳ, phía trước hậu đường đắp nổi ba chữ Thiên Thai động, nền đền lát gạch vuông truyền thống, mái lợp ngói mũi. Cửa đền được xây cuốn hình vòm gồm 3 cửa, cửa giữa cao và to hơn cửa hai bên, cánh cửa được đóng bằng gỗ, kiểu bức bàn. Trong đền được bài trí tượng thờ và nhiều đồ thờ tự khác. Hằng năm, vào ngày 24/2 (âm lịch), nhân dân trong vùng và cán bộ xã Hồng Kỳ lại tưng bừng mở hội, dâng hương và tổ chức các hoạt động văn hóa để tưởng nhớ đến công trạng của ông. Với ý nghĩa lịch sử như trên, động Thiên Thai là một trong 23 điểm di tích thuộc Hệ thống di tích lịch sử Những địa điểm khởi nghĩa Yên Thế được Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 548/QĐ-TTg ngày 10/5/2012 xếp hạng là Di tích quốc gia đặc biệt. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ SỞ VĂN HÓA - THỂ THAO - DU LỊCH TỈNH BẮC GIANG

Bắc Giang 158 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Chùa Bạch Hào

Chùa Hào Xá hay Chùa Hào (gọi theo Hán-Việt là Bạch Hào cổ thiền tự) , ở làng Hào Xá, xã Thanh Xá, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương; được xây dựng từ thời nhà Lý. Là ngôi chùa có phong cảnh sông nước hữu tình, mang nhiều nét độc đáo của vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1993 và năm 2015; lễ hội chùa Hào Xá là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Làng Hào Xá, xã Thanh Xá, huyện Thanh Hà nằm trên một giải đất hẹp ven sông Cửa Chùa - một nhánh của sông Hương. Thế đất của làng như hình con chim phượng hoàng xòe cánh. Chùa Hào Xá tọa lạc trên đầu chim có chùm lông màu trắng nên có tên chữ là Bạch Hào tự tức chùa Bạch Hào. Dân địa phương gọi tắt là chùa Hào Theo ngọc phả, chùa được xây dựng năm 1011 vào thời vua Lý Thái Tổ. Lúc đầu nhân dân trong vùng đã dựng chùa mang tên chùa Hào với quy mô ba gian chủ yếu bằng tranh tre lợp lá gồi, lá cọ để thờ Phật. Về sau, qua các triều đại, chùa được xây dựng lại và mở rộng thêm quy mô, thờ Phật, vua Trần Nhân Tông, thành hoàng làng và các vị sư trụ trì Theo ngọc phả và các tài liệu liên quan, vào thời nhà Trần, ở trang Hạ Hào (thời Hậu Lê, trang Hạ Hào đổi thành làng Hào Xá, thuộc xã Hương Đại, tổng Bình Hà, huyện Thanh Hà, phủ Nam Sách; từ năm 1956, Hào Xá là một làng của xã Thanh Xá, huyện Thanh Hà) có vợ chồng ông Nguyễn Danh Doãn và bà Phạm Thị Phương sinh được hai người con trai đặt tên là Nguyễn Danh Nguyên và Nguyễn Danh Quang. Hai anh em Nguyên và Quang học rất giỏi, tinh thông võ nghệ. Lớn lên, hai anh em kết thân với Lý Đình Khuê là bạn học và người cùng làng. Khi đi thi, cả ba người đều đỗ cao và được vua phong làm học sĩ, chuyên chăm lo việc giáo huấn trong cung. Khi giặc Nguyên Mông đem quân sang xâm lược nước ta, ba ông theo vua Trần Nhân Tông và Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đi đánh giặc ở Phả Lại, Vạn Kiếp. Giặc tan, nhà vua hết lời ca ngợi, bia đá còn ghi lời vua nói: "Từ ngày nước nhà xảy ra chiến sự Tam Công ngày đêm miệt mài tu thân luyện chí tìm phương kế cứu nước, cứu dân" Ngày 6 tháng 1 năm 1293, Điều Ngự Đầu Đà Trần Nhân Tông du ngoạn đầu xuân và truyền giảng kinh sách bằng đường thủy. Đến trang Hạ Hào, ba cư sĩ tổ chức cùng dân làng mở hội đua thuyền để tiếp đón vị đệ nhất tổ thiền phái Trúc Lâm. Thấy phong cảnh sông nước hữu tình, Thượng hoàng hạ lệnh cho dựng lại chùa, mở rộng quy mô và đổi lại tên là chùa Bạch Hào, làm hoành phi câu đối, lập bệ thờ bằng đá hình tòa sen để thờ Phật và giao cho 3 ông ở lại tu tại chùa. Ít năm sau, ba vị cư sĩ được Đức Điều Ngự triệu về Yên Tử tu luyện rồi lần lượt "hoá" tại đây. Ghi nhớ công lao giúp dân giúp nước của ba ông, vua nhà Trần đã ban vàng bạc cho dân làng Hạ Hào lập miếu thờ và sắc phong làm thành hoàng, khắc vào đại tự "Tướng Hào tỏa sáng". Nguyễn Danh Quang được sắc phong là Phả Lại cư sĩ, Nguyễn Danh Nguyên là Phả Hộ cư sĩ, Lý Đình Khuê là Phả Tế cư sĩ. Ba vị cư sĩ được thờ tại chùa, được tôn là ba vị sư tổ đầu tiên của chùa. Hàng năm, cứ vào ngày mồng 4 - 6 tháng Giêng âm lịch, dân làng Hòa mở lễ, hội (đua thuyền...) cho đến ngày nay. Vào những năm 1540, thời nhà Mạc, tăng phó Trần Như Thừa đã quyên góp tiền của công đức xây dựng lại chùa gồm 60 gian lớn nhỏ theo kiểu nội công ngoại quốc. Sau này do mai một bởi thời gian thiên nhiên, bão lũ cũng như các cuộc chiến tranh thời Lê, thời Mạc, thời Nguyễn chùa cũng được tu sửa nhưng kiến trúc cổ không còn được giữ lại bao nhiêu. Hoà thượng Thích Gia Huệ trụ trì tại chùa từ năm 1954 cho đến khi viên tịch... Vào những năm cuối thập kỉ 90, đầu những năm 2000 các Tăng Ni, chư tôn Thiền đức trụ tại chùa, các tín đồ Phật tử và nhân dân đã tôn tạo chùa; tháp chuông và ngôi Tam bảo của chùa lần lượt được xây dựng khang trang. Trải qua thời gian, nhiều cuộc chiến tranh, đến nay các nét độc đáo, vật cổ giữ lại quá ít. Ngôi chùa hiện nay, bao gồm Tiền đường 5 gian, Hậu cung 2 gian, Nhà tổ 3 gian; tiền đường, được xây dựng theo kiểu chồng rường đấu sen; các vì kèo đều có chạm khắc hoa lá, trúc hoá long. Vào cuối thế kỷ 19, nghĩa quân Bãi Sậy lấy chùa Hào làm cơ sở trú quân. Trong chiến tranh Việt - Pháp, chùa Hào là nơi thành lập chi bộ đảng đầu tiên của xã Bình Hà (trước đó là tổng Bình Hà); nơi chứng kiến lễ ra mắt của Mặt trận Việt Minh huyện Thanh Hà; cơ sở hoạt động của cán bộ một số xã lân cận và nhiều chiến sĩ cách mạng; nơi đứng chân của một số cơ quan huyện, nơi đặt trạm giao liên giữa huyện với khu Hà Đông và thực hiện tiêu thổ kháng chiến với tháp chuông phải dỡ bỏ. Sư trụ trì của chùa là Ngô Văn Nhẫn kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam, một trong những đảng viên đầu tiên của làng Hào. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Thanh Hà , tỉnh Hải Dương.

Hải Dương 145 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Minh Khánh

Chùa Minh Khánh (chùa Hương Đại, chùa Hương) tọa lạc ở làng Bình Hà thuộc thị trấn Thanh Hà, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương; thuộc hệ phái Bắc tông, thờ Phật và đức vua Trần Nhân Tông; là di tích lịch sử văn hóa Quốc gia năm 1990. Chùa Minh Khánh được xây dựng vào thời Lý - Trần, được trùng tu nhiều lần vào các thế kỷ 16, 17, 18, 19. Năm 1992, sư trụ trì Thích Đàm tổ chức đại trùng tu ngôi chùa và xây tam quan. Hiện nay, chùa Minh Khánh có khuôn viên rộng hơn 1ha, bên trong còn bảo toàn được hệ thống tượng Phật, vườn tháp cổ và các di vật quý: lưu giữ trên 200 cổ vật như tượng, tháp, bia, cột đá, giếng nước...; 13 đạo phong của các triều Lê, Nguyễn (Vĩnh Khánh, Cảnh Hưng, Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Đồng Khánh, Duy Tân, Khải Định...) và nghị định xếp hạng di tích của Toàn quyền Đông Dương năm 1925. Ở chánh điện, chùa còn lưu giữ 9 viên ngọc Xá lợi tương truyền là của Trúc Lâm đệ nhất tổ Trần Nhân Tông và tháp lưu huyết của Ngài. Lễ hội chùa Minh Khánh kéo dài 3 ngày liền, chính hội tổ chức vào ngày 1/11 Âm lịch hàng năm, kỷ niệm ngày đức vua Trần Nhân Tông viên tịch trên núi Yên Tử. Phần lễ có lễ rước sắc, rước mâm ngũ quả, lễ mộc dục và lễ tế. Phần hội gồm các trò chơi: cờ người, múa rối nước, chèo, thi mâm ngũ quả, thi làm bánh dầy…. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Thanh Hà , tỉnh Hải Dương.

Hải Dương 145 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

CHÙA PHÚC TẰNG

Chùa Phúc Tằng còn còn có tên tự là Sùng Quang tự, thuộc thôn Phúc Tằng, xã Tăng Tiến, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Chùa tọa lạc trên một mảnh đất rộng gần 5000m2, ngoảnh mặt về hướng Nam ghé Tây, một hướng đẹp mang nhiều ý nghĩa tốt lành theo giáo lý nhà Phật. Đây là ngôi cổ tự được nhân dân địa phương xây dựng với quy mô bề thế mang tính chuẩn mực của nghệ thuật kiến trúc chùa tháp theo tông phái Đại thừa ở miền Bắc Việt Nam. Chùa là nơi sinh hoạt văn hóa truyền thống và tín ngưỡng của Tăng Tiến từ xưa đến nay. Di tích chùa Phúc Tằng là một công trình tín ngưỡng cổ được xây dựng từ lâu đời. Tương truyền chùa được xây dựng từ thời Lý, năm Canh Ngọ (1630). Chúa Thanh Vương Trịnh Tráng đứng đầu hưng công trùng tu chùa cổ khang trang đẹp đẽ với quy mô lớn. Các thời Lê, Nguyễn, chùa được trùng tu tôn tạo nhiều lần. Theo tấm bia đá hiện còn được lưu giữ lại tại chùa được biết, chùa Phúc Tằng được tạo dựng vào triều vua Lê Thần Tông, niên hiệu Đức Long thứ 3 (năm 1631), trong bia có đoạn viết: “Phúc Long đẳng xã có chùa Sùng Quang là nơi cổ tích danh lam, phía trước có dãy núi lớn chu tước hình thể đẹp đẽ, phía sau huyền vũ có núi xanh xanh uốn lượn. Tả thanh long dẫn dòng nước đăng khoa như dải hoa bạc bao quanh. Hữu bạch hổ dãy núi xanh như hình giá bút ngọc chầu về, ở giữa mở ra một khu đất Phật cao sáng, thiêng liêng, là nơi quốc dân thường đến cầu khẩn từ lâu rất linh thiêng ứng nghiệm…”. Với tổng diện tích gần 5000m2, kiến trúc ngôi chùa gồm: sân chùa, toà tiền đường và thượng điện. Cổng chùa xây bằng gạch. Nét độc đáo của kiến trúc chùa Phúc Tằng là được thiết kế theo kiểu chồng diêm, một kiểu kiến trúc cổ hiếm thấy. Toà tiền đường chùa Phúc Tằng được dựng gồm 5 gian 2 chái, kết cấu hai tầng theo kiểu chồng diêm, phía trước là cửa bức bàn chấn song. Hệ thống chịu lực bằng gỗ lim với 8 hàng chân cột, kết cấu kiến trúc theo lối chồng diêm, trụ giá chiêng, tiền kẻ hậu bẩy. Các cấu kiện được tạo bằng gỗ tứ thiết chắc khỏe, bào trơn, đóng bén, soi gờ, kẽ chỉ. Trên các con chồng ở vì nóc, vì nách đều chạm nổi hình hoa văn lá cúc lật, vân xoắn vân mây. Giữa các vì được liên kết với nhau bởi hệ thống xà thượng, xà trung và hạ cùng hệ thống hoành, rui mè. Trong tòa tiền đường dựng một tấm bia đặt trên mình con rồng bằng đá. Bia có niên hiệu: Hoàng triều Đức long tam niên. Thượng điện của chùa Phúc Tằng được xây sát ngay phía sau vuông góc với toà tiền đường, tạo ra bình đồ kiến trúc kiểu chuôi vồ - hình chữ đinh (J), bên trong thượng điện các đồ thờ tự và hệ thống tượng Phật được bài trí dàn trải trên các bục (bệ) được xây bằng gạch chỉ phủ vữa, quét vôi trắng và hệ thống bệ tượng làm bằng gỗ được tạo tác rất công phu… Về nghệ thuật chạm khắc của chùa Phúc Tằng được thể hiện khá rõ nét và tinh tế tại ba bức chạm trang trí ở vì kèo tại thượng điện. Bức thứ nhất được tạo tại vì giữa có chạm khắc hình tiên cưỡi rồng ẩn, hiện trong mây xen lẫn những hoạ tiết chim muông, hoa lá cách điệu. Bức chạm thứ hai trang trí bên phảI toà thượng điện, được tạo rất đẹp và tinh tế với những hình thú như: hoạ tiết hình chim và hình hoa sen cách điệu…đây là những đề tài trang trí rất sống động, thể hiện sự tinh xảo, mang tính chất đời thường. Bức chạm khắc bên trái cũng được chạm khắc rất đẹp và hoàn hảo với các đề tài trang trí: hình hổ, chim muông, dơi, cá và hoa lá cách điệu…hình cá tạo theo kiểu đề tài “lý ngư vọng nguyệt”, hổ tạo tư thế rình mồi, chim đang ấp trứng, dơi đang ngủ…Toàn bộ ba bức chạm khắc này đều là các tác phẩm nghệ thật rất độc đáo, tinh tế và mang tính thẩm mỹ cao. Trải qua thời gian, do sự tác động của điều kiện tự nhiên cùng diễn biến thăng trầm của lịch sử, chùa Phúc Tằng cũng bị mai một và tàn phá nhiều hạng mục, không còn được nguyên vẹn như xưa. Tuy nhiên, chùa vẫn còn lưu giữ được nhiều tài liệu, hiện vật quý có giá trị văn hóa, lịch sử và kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu như: 01 tấm bia đá tạo vào triều vua Lê Thần Tông, niên hiệu Đức Long thứ 3 (năm 1631), 01 tấm bia tạo vào năm Vĩnh Hựu thứ 3 (năm 1737), 03 bức chạm gỗ tinh tế và hệ thống tượng thờ, đồ thờ... Với những giá trị tiêu biểu và độc đáo về mặt kiến trúc nghệ thuật, năm 2003, chùa Phúc Tằng đã được UBND tỉnh xếp hạng là di tích Kiến trúc - nghệ thuật. Năm 2011, chùa được Bộ VH,TT&DL xếp hạng di tích cấp Quốc gia. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ THỊ XÃ VIỆT YÊN TỈNH BẮC GIANG

Bắc Giang 126 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia Mở cửa

Cụm di tích Lý Cốt

Cụm di tích đình, chùa, nghè Lý Cốt, xã Phúc Sơn, huyện Tân Yên là nơi sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân 4 thôn Luông, Trám, Lý Cốt, Đài Sơn. Trong đó, đình Lý Cốt tọa lạc trên đồi cao, hướng ra xứ đồng Vắng là nơi thờ thần Cao Sơn, Quý Minh đại vương và Đức thánh Tam Giang; nghè thờ Nàng Giã đại thần (nữ tướng thời Hai Bà Trưng), các triều đại Lê - Nguyễn sắc phong cho bà là “đại thần” nên có tên ghép là Nàng Giã đại thần. Theo một số tài liệu, đình Lý Cốt được khởi dựng thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVII- XVIII). Trước đây đình rất bề thế, gồm 5 gian tiền tế, 3 gian hậu cung, hai tòa dải vũ, đao cong, mái lượn, toàn bộ kiến trúc bằng gỗ lim nhưng do thời gian nên bị đổ nát, qua nhiều lần trùng tu nhân dân đã phục dựng lại vững chắc như hiện nay với 3 gian, 2 chái và 1 hậu cung, kết cấu kiến trúc kiểu chữ đinh (J), cửa thượng song hạ bản, tại đây còn lưu giữ bài vị, ngai thờ, hậu bành và một số di vật cổ thời Lê- Nguyễn. Đặc biệt, nhân dân trong vùng còn lưu truyền huyền thoại rằng: Nàng Giã tên thật là Dương Thị Giã, người làng Chuông (Nhã Nam). Vào thời Hai Bà Trưng chống quân Hán (năm 40 sau Công nguyên), Nàng Giã tập hợp lực lượng những người yêu nước trong vùng đứng lên chống giặc, gìn giữ mảnh đất quê hương. Rồi từ đây đoàn quân của bà tiến về Mê Linh nhập vào hàng ngũ của nghĩa quân Hai Bà Trưng, bà được phong làm nữ tướng và lập nhiều chiến công hiển hách. Có thời gian bà Giã cho quân về vùng núi Đót (xã Yên Lý) chờ thời cơ thuận lợi tiến công quân giặc, nghĩa quân phải nếm mật nằm gai, ăn đồ lạnh như¬ cơm nắm, cơm lam, nhân dân không ra đồng để chờ lệnh đánh giặc. Núi Đót nằm ở cực Tây Bắc của huyện Tân Yên, có độ cao 121,8 m, là điểm cao nhất trong huyện và cũng là ranh giới giữa hai tỉnh Bắc Giang, Thái Nguyên. Trong một trận quyết chiến ác liệt, vì lực lượng yếu nên bị thất thủ, dù thương tích đầy người nhưng bà vẫn một mình một ngựa phá vòng vây của giặc để về nhà, đến núi Đót bên cạnh giếng Hà (làng Lý Cốt, xã Phúc Sơn ngày nay) thì trẫm mình tuẫn tiết, khu vực này hiện vẫn còn phần mộ của bà. Để tưởng nhớ công lao Nàng Giã, nhân dân trong vùng đã lập nghè thờ và lấy ngày mùng 8 tháng 4 âm lịch (ngày giỗ của bà) làm lệ làng, vào ngày này, người dân 4 thôn trên có tục “cấm lửa” và “cấm đồng” theo đó không ai ra đồng, không ai đốt lửa mà chỉ ăn cỗ nguội, cơm nắm, bánh dày tế thần nấu từ hôm trước. Dân gian có câu: Trám, Luông, Lý Cốt, Phẩm, Giàng Tháng Tư, mồng tám giỗ Nàng Giã tiên Được biết, đình làng Chuông (Nhã Nam, Tân Yên) cũng thờ Nàng Giã Đại Thần. Vì vậy, từ xa xưa Lý Cốt - Nhã Nam đã kết ước nhận nhau làm anh em, giúp đỡ nhau lúc hoạn nạn, gian khó, đời nối đời con cháu đều tuân theo lệ cổ. Dân trong vùng thường nói “Đình Lý Cốt, Cột Nhã Nam” để khẳng định về sự gắn bó, đoàn kết giữa hai làng. Hội lệ đình Lý Cốt vào 14 tháng Giêng và mùng 8 tháng Tư âm lịch, ngày này sẽ tổ chức rước, tế lễ trang nghiêm, đặc biệt đồ cúng, rước phải có thịt gà đen, xôi đen, tàn lọng cũng màu đen. Vào ngày này, người dân trong vùng có tục "cấm lửa" và "cấm đồng". Bắt đầu từ ngày mồng 7, công việc chuẩn bị cho ngày giỗ Nàng Giã phải xong hết, đến ngày 8 không ai được ra đồng làm việc, không nhà nào được nấu nướng, mọi gia đình đều làm lễ thắp hương tưởng niệm. Cùng đó là các trò chơi dân gian như đấu vật, kéo co, chọi gà, cờ tướng, bịt mắt đập niêu, hát quan họ...thu hút đông đảo nhân dân trong vùng đến dự. Với những giá trị văn hóa và ý nghĩa đó, năm 2004, cụm di tích Đình, chùa, nghè Lý Cốt và phần mộ Nàng Giã được xếp hạng di tích lịch sử, văn hóa cấp tỉnh. Năm 2005, đình được Nhà nước hỗ trợ kinh phí đầu tư tu sửa, tôn tạo thêm phần khang trang, tố hảo. Liên quan đến tín ngưỡng thờ Nàng Giã đại thần còn có đình làng Chuông thuộc thị trấn Nhã Nam. Truyền thuyết khác cho rằng, bà Dương Thị Giã quê ở làng Chuông, Nhã Nam nhưng đã anh dũng hy sinh ở núi Đót nên hai nơi đều dựng đình, nghè tôn thờ bà. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ SỞ VĂN HÓA - THỂ THAO - DU LỊCH TỈNH BẮC GIANG

Bắc Giang 132 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

ĐỀN THỜ TIẾN SĨ THÂN NHÂN TRUNG

Yên Ninh là một làng cổ còn có tên gọi Nôm là Nếnh xưa thuộc tổng Dật Ninh, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, xứ Kinh Bắc; về sau tổng Dật Ninh được chuyển sang huyện Việt Yên, phủ Bắc Hà. Ngày nay, Yên Ninh thuộc thị trấn Nếnh, huyện Việt Yên. Trong lịch sử khoa bảng Việt Nam, làng cổ Yên Ninh được cả nước biết đến là "làng Tiến sĩ". Với truyền thống hiếu học, khoa bảng vốn có, cùng ý chí quyết tâm luyện rèn kinh sử xưa tại làng Yên Ninh đã giúp cho ngôi làng lập lên một thành tích khoa cử nổi danh trong cả nước. Đó là vào khoảng thế kỷ XV- XVII, khi cả tỉnh Bắc Giang có 5 quan Tế tửu, Tư nghiệp ở Quốc Tử Giám thì riêng làng Yên Ninh đã có 4 người (Thân Nhân Trung, Nguyễn Lễ Kính, Đỗ Văn Quýnh, Hoàng Công Phụ). Trong đó, người mở đầu khai khoa là Tiến sĩ Thân Nhân Trung đỗ Tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa thi Kỷ Sửu năm 1469. Tiếp đến là Tiến sĩ Nguyễn Lễ Kính đỗ Tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Ất Mùi năm 1475. Tiến sĩ Ngô Cảnh Vân đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân khoa Tân Sửu năm 1481. Tiến sĩ Thân Nhân Vũ (con trai Thân Nhân Trung) đỗ Tam giáp Đồng Tiến sĩ khoa Tân Sửu năm 1481. Tiến sĩ Thân Cảnh Vân (cháu Thân Nhân Trung) đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập Đệ Tam danh (Thám hoa) khoa Đinh Mùi năm 1487. Tiến sĩ Thân Nhân Tín (con trai Thân Nhân Trung) đỗ Đệ Tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Tuất năm 1490. Tiến sĩ Đỗ Văn Quýnh đỗ Đệ Tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Thìn năm 1520. Tiến sĩ Doãn Đại Hiệu đỗ Đệ Tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Tân Sửu 1541. Tiến sĩ Nguyễn Nghĩa Lập đỗ Đệ nhị Đồng giáp Tiến sĩ năm 1553. Tiến sĩ Hoàng Công Phụ đỗ Đệ Tam giáp Đồng Tiến sĩ khoa Kỷ Mùi năm 1619. Công trình đền thờ Tiến sĩ tọa lạc tại thôn Yên Ninh, nơi đây xưa là cánh đồng lúa quanh năm xanh tốt, nằm giữa 2 dòng sông lớn là Nguyệt Đức (tức sông Cầu) và Nhật Đức (tức sông Thương), bên cạnh đó các ngọn núi phía Tây hình vòng cung tạo thành “Hàm Rồng phun tản vân” (tức phun châu) về phía Yên Ninh. Chính vì vậy, thôn Yên Ninh được coi là vị trí "tụ thủy" nên được người xưa khéo so sánh ví von như chiếc nghiên mực. Đó cũng là lý do để luận giải về sự hưng thịnh, vẻ vang kéo dài gần hai thế kỷ trong sự nghiệp khoa cử của làng quê Yên Ninh từ xưa đến nay. Hiện nay, đền thờ Tiến sĩ Thân Nhân Trung được xây dựng trên một thế đất phong thủy đẹp, thoáng đãng, mặt nhìn về hướng Nam, xung quanh là khu dân cư trù mật, phía sau là đình Yên Ninh và phía trước cách khoảng 500m là con đường cao tốc chạy qua. Toàn bộ khuôn viên đền rộng chừng 19.183,5m2. Nhìn tổng thể, đền có quy mô lớn bề thế, được sắp xếp bài trí trong một bố cục cân đối, hài hòa gồm các hạng mục công trình: Đền thờ, Tả vu, Hữu vu, Nhà bia, Nghi môn nội, Nghi môn ngoại. Nhìn từ xa, nghi môn ngoại, được xây theo lối kiến trúc tường thành cổ gồm 2 tầng với 3 cửa cuốn vòm cân xứng và 2 cửa phụ 2 bên. Tầng 1 liên kết với nhau bởi các cột trụ biểu, 4 cột trụ biểu chính giữa trên đỉnh đắp trang trí hình tứ phượng chung thân, phía dưới trang trí hoa văn, thân cột trụ biểu chạm khắc chữ Hán ca ngợi cảnh đẹp ngôi đền. Bốn cột trụ biểu hai bên trên đỉnh đắp trang trí hai con nghê đang trong tư thế chầu vào trong. Phần tầng 2 chính giữa nghi môn là gác lâu được mô phỏng theo kiểu kiến trúc giống Khuê Văn Các ở Văn Miếu- Quốc Tử Giám. Gác lâu được thiết kế theo lối chồng diêm, 2 tầng, 8 mái đao cong, bốn bên tường hồi gác là 4 cửa sổ tròn, biểu tượng của hình mặt trời. Qua Nghi môn ngoại là đến hồ nước được xây dựng gọn gàng, xung quanh hồ được kè chắc chắn với lan can đá tạo tác hình con tiện nối với nhau bởi các cột trụ lửng. Tiếp đến là hạng mục Nghi môn nội. Nghi môn nội tạo bởi 3 gian kết cấu theo lối chồng diêm, 2 tầng. Mái lợp ngói mũi, bờ nóc, bờ dải xây gạch, ngoài phủ vữa. Ngăn cách giữa tầng mái trên và tầng mái dưới là phần cổ diêm chấn song hình con tiện bằng gỗ. Chính giữa treo biển đề chữ Hán "Thân tướng công từ". Tường hồi hai bên trái, phải nghi môn được xây theo lối tường hồi tay ngai, tường xây gạch phủ vữa quét vôi, hai hồi phía trước, sau để thoáng. Cửa được làm theo kiểu thượng song hạ bản. Các vì liên kết theo kiểu thức vì con chồng đấu kê trụ giá chiêng. Các cấu kiện đều được làm bằng gỗ lim. Hai bên cửa nghi môn đặt hai tượng trong tư thế đứng hầu bằng chất liệu đá. Tiếp đến là hạng mục nhà bia gồm 2 nhà bia đặt 2 bên trái, phải của đền cân xứng nhau. Nhà bia tạo bởi 1 gian 4 cột gỗ chắc khoẻ nâng đỡ lấy bộ khung mái tạo sự vững chắc và thanh thoát. Giữa đặt bia đá ghi về công trạng tiến sĩ Thân Nhân Trung. Đến phần sân, chính giữa sân tạo bức bức bình phong với ý nghĩa là biểu trưng của phong thủy, là lá chắn để đảm bảo cho sự bình yên của ngôi đền. Bức bình phong được làm bằng chất liệu đá xanh, tạo tác trang trí theo hình cuốn thư. Phía trên cùng của bình phong trang trí hoa văn kỷ hà, xung quanh là hình vân mây mềm mại và phía trung tâm của bức bình phong là hình hổ ngồi chầu. Hậu cung gồm 1 gian 2 chái. Hậu cung được ngăn cách với tòa Thiêu hương bởi hệ thống cửa thượng song hạ bản, trên hệ thống cửa trang trí các đề tài tứ quý, tứ linh. Các vì liên kết với nhau theo kiểu thức con chồng, đấu kê, trụ giá chiêng. Tất cả các bức cốn, đầu dư, kẻ, bẩy... đều được trang trí bằng những mảng chạm lộng, chạm kênh bong, chạm nổi kết hợp với sự điêu luyện, tinh tế. Các đề tài trang trí rất phong phú như: tứ linh, tứ quý, kỷ hà... đường nét chạm khắc đẹp, khối hình to, tròn mập. Bên trong Hậu cung là nơi đặt tượng thờ Tiến sĩ Thân Nhân Trung, cùng bài vị của Thân Phụ và Thân Mẫu Tiến sĩ Thân Nhân Trung. Trong những năm qua, để động viên khích lệ tinh thần hiếu học, dòng họ Thân cũng như các dòng họ khoa bảng khác tại tổ dân phố Yên Ninh đã phát động phong trào đóng góp xây dựng quỹ khuyến học, hằng năm trao thưởng cho con em có nhiều thành tích cao trong học tập và rèn luyện tại đền; một số trường học trên địa bàn thị trấn cũng đến dâng hương tưởng niệm và tổ chức lễ vinh danh học sinh giỏi tại đền; một số du khách trong và ngoài tỉnh cũng đã bước đầu đến thăm quan tìm hiểu về ngôi đền và Tiến sĩ Thân Nhân Trung. Cùng với các di tích trong vùng như đền thờ Tiến sĩ, Nghè Nếnh, Đền thờ Tiến sĩ Thân Nhân Trung đã trở thành địa điểm giáo dục truyền thống văn hóa về tinh thần hiếu học cho các em học sinh trong các buổi sinh hoạt ngoại khóa giúp các em hiểu và trân quý những giá trị di sản văn hóa mà cha ông đã để lại. Với những giá trị to lớn, gắn với danh nhân tiêu biểu của quốc gia dân tộc, ngày 09/6/2022, đền thờ Tiến sĩ Thân Nhân Trung được Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang quyết định xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh (Quyết định số 1150/QĐ-UBND). NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ SỞ VĂN HÓA - THỂ THAO - DU LỊCH TỈNH BẮC GIANG

Bắc Giang 128 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Chùa Đồng Neo

Chùa Đồng Neo tọa lạc trên địa bàn thôn Cập Thượng, xã Tiền Tiến, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương. Được xây dựng vào năm 1699, niên đại của chùa có hơn 300 tuổi. Đây là ngôi chùa cổ đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng Di tích Lịch sử văn hóa vào ngày 31/12/1997. Chùa được xây dựng theo kiến trúc : “Nội công ngoại quốc", nhà côn sơn đương tiện, lối kiến trúc cổ, hoa văn tinh xảo và độc đáo là kiến trúc đặc trưng của thời Hậu Lê. Ngôi Tam Bảo được xây dựng theo kiến trúc chữ Đinh có 7 gian tiền đường và 3 gian hậu điện. Vật liệu để dựng chùa là tường gạch Bát tràng cổ và cột chống, mái bằng gỗ. Tại 4 góc mái là bốn mái đao cong vút chạm trổ đầu rồng. Mái chùa được dựng với kiến trúc đặc trưng thời Hậu Lê đó là theo dạn thức bộ vì kiểu “chồng rường" và “thượng rường hạ bẩy". Hệ thống chịu lực gồm 2 hàng cột gỗ lim, đường kính 0,40m, đều được kê trên chân tảng đá. Lối kiến trúc truyền thống rường - bẩy đã tạo ra nhiều khoảng không gian nền cho nghệ thuật chạm khắc gỗ dân gian ở tất cả các chi tiết: đầu dư, dép hoành, thân bẩy, các bức cốn mê, cốn nách, xà rồng, cửa võng... thể hiện các đề tài trang trí : Rồng - phượng trong phong cách nghệ thuật hóa thân : các linh vật luôn hóa đổi thành chim muông, hoa lá, cùng cảnh sắc thiên nhiên phong vân vần vũ, góp phần bổ khuyết cho kiến trúc, đồng thời nâng cao giá trị mỹ thuật, tôn thêm vẻ uy linh, nghiêm cẩn nơi thánh thần ngự tọa - một đặc điểm của tư duy kiến trúc đồng bằng Bắc Bộ : tự nhiên và cuộc sống luôn là đề tài chủ đạo cho mọi sáng tác nghệ thuật, nhất là nghệ thuật xây dựng các công trình kiến trúc tín ngưỡng. Trong ngôi Tam Bảo còn lưu giữ thờ tượng Phật vô cùng quý giá có từ thời Hậu Lê. Cách bài trí tượng thờ đặc trưng của các chùa miền bắc và sự kết hợp quan điểm Tam giáo đồng nguyên gồm 3 pho Tam Thế, tam Thánh Tây Phương, tượng Đức Bản Sư niêm hoa vi tiếu, tượng Di Lặc, tượng Ngọc Hoàng Thượng Đế và Nam Tào Bắc Đẩu, tòa Cửu Long. Các đồ thờ trong chùa đều bằng gỗ và chạm khắc tinh xảo. Trong chùa có các hoành phi câu đối được chạm khắc tinh xảo như : đại tự “Hiển ứng linh", đại tự “Tuệ nhật viên dung"… có từ thời Nguyễn. Đặc biệt, trong chùa còn lưu giữ được hơn 100 bản khắc bằng gỗ mít gồm kinh Lăng Nghiêm và kinh Viên Giác. Sau chùa là 3 gian nhà Tổ, mới được trùng tu. Trước đây, vào thời kháng chiến chống Pháp nhà Tổ được kiến trúc theo hình chữ Nhị, nhưng đã được tháo dỡ 7 gian tiền đường để phục vụ kháng chiến. Hiện nay, trong nhà Tổ còn thờ tượng Tổ Bồ Đề Đạt Ma và chư vị Tổ sư từng trụ trì tại chùa, đều là tượng cổ, điêu khắc độc đáo. Ngoài ra chùa còn nhiều cổ vật quý giá được lưu giữ qua nhiều thế hệ như : Thống đá đựng nước thời vua Lê Hy Tông năm Chính Hòa thứ 23 tức năm Nhâm Ngọ (1702). Thống đá cổ này do một gia đình họ Nguyễn làm quan trong triều Lê về tiến cúng. Chùa có chuông cổ ngày ngày vào lúc sớm chiều , chiêu mộ đều ngân vang, nhưng ít người được biết đến chuông được đúc từ thời Hậu Lê niên hiệu Chính Hòa thứ 21 tức năm 1700. Hơn 300 năm nay, tiếng chuông chùa luôn gắn bó với dân làng cũng như những người con sống xa quê. Bên cạnh đó, chùa còn lưu giữ các bia đá cổ : - Bia đá Đồng Neo tháp, 4 mặt khắc chữ có từ năm 1679. - Bia đá Linh ứng tự năm 1895. - Bia đá Hậu Phật ký năm Duy Tân thứ năm (1911) - Phía trước tháp chuông có một cây hương đài bằng đá cao 1,2m, có 4 cạnh rộng 0,18m có dòng chữ ghi : Lê triều Chính Hòa, nhị thập niên, Kỷ Mão phi việt cát nhật (nghĩa là năm 20 niên hiệu Chính Hòa 1699). Ngoài những bảo vật bằng đá, bằng đồng, chùa còn có vườn tháp cổ như các tháp - Tháp Minh Quang được xây bằng gạch 3 tầng, bia tháp ghi : Tự Đức thập nhất niên- năm Tự Đức thứ nhất (1864), là tháp thờ Hòa Thượng Thích Chiếu Khuông. - Tháp Thiên quan bảo tháp bằng gạch 3 tầng xây dựng thời vua Minh Mệnh 1827. - Tháp Phả Đồng Minh được xây dựng từ thời Nguyễn thờ 3 vị sư : Phổ Chiêu, Phổ Hiếu, Phổ Nghiêm. - Tháp có giá trị nhất là Tịnh Minh tháp bằng đá 3 tầng được xây dựng năm Tân Dậu, đây là tháp thờ Hòa thượng Thích Tường Tường. Trên tháp có đôi câu đối : Huân lao tịnh nghiệp thiết lâm đài, Lật ngật kình dương thành chế để" Hoà thượng Thích Chiếu Khuông sinh năm Mậu Tuất (1778) vào niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 39, người quê Siêu Loại - phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay là Thuận Thành, Bắc Ninh.) Thân mẫu là Nguyễn Thị Đàm ở làng Đông. Đến triều Cảnh Thịnh năm thứ 3 (1796), Hoà thượng cùng 18 người vào chùa Khánh Quang thuộc thiền phái Trúc Lâm Yên Tử Lâm Tế đàng ngoài làm lễ thế phát xuất gia. Hoà thượng là cháu đời thứ 9 của Thiền sư Chuyết Chuyết. Hoà thượng là người thông minh, dĩnh ngộ không khác gì một tỵ Tổ, chay tịnh làm theo các điều răn dạy của Phật Tổ. Đến niên hiệu Bảo Hưng năm thứ nhất (1801), Hoà thượng đã thụ giới cụ túc. Sau đó, Hoà thượng về chùa Đồng Neo trụ trì. Hoà thượng đã tiến hành sửa chữa thượng điện, làm mới tượng Phật, làm nhà để chúng Tăng ở. Đến thời vua Tự Đức, Hoà thượng làm lại nhà Tổ, tạc tượng Tổ Bồ Đề Đạt Ma (vẫn còn thờ tại nhà Tổ ngày nay). Năm Giáp Tý - 1865, Hoà thượng lúc này đã 87 tuổi đời, 64 năm tuổi hạ công đức tu hành đã viên mãn. Nhằm ngày 15 tháng 2, Hoà thượng ngồi trên đàn trà tỳ, chúng Tăng vĩnh biệt Hoà thượng với lòng tôn kính vô biên. Hoà thượng đã thâu thần thị tịch nhập Niết Bàn. Đồ chúng đã cung nghinh xá lợi Hoà thượng nhập phù đồ. Hàng năm, nhân dân Phật tử chùa Đồng Neo tưởng nhớ công đức của Giác linh Hoà thượng đối với Đạo pháp- Dân tộc đã tổ chức Lễ tưởng niệm để tri ân, báo ân đối với bậc Tổ sư cao Tăng đắc đạo. Nguồn Cổng thông tin điện tử xã Tiền Tiến , thành phố Hải Dương.

Hải Dương 150 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Động Ngọ

Là một ngôi chùa cổ tọa lạc tại thôn Cập Nhất, xã Tiền Tiến (trước thuộc huyện Thanh Hà), thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương. Chùa Động Ngọ là một trong hai ngôi chùa cổ nhất của Hải Dương. Niêm đại chùa có hơn 1000 năm tuổi, trong chùa có nhiều cây cổ thụ có khoảng 600 đến 700 tuổi. Quốc sư Khuông Việt đã xây dựng chùa này vào năm 971 theo chiếu lệnh của vua Đinh Tiên Hoàng. Hiện nay chùa mang nhiều dấu ấn kiến trúc nghệ thuật cuối thế kỷ XVII, thuộc hệ phái Bắc tông, là di tích lịch sử – văn hóa quốc gia. Trước năm 1947, chùa có quy mô lớn. Nay nhỏ lại, bố cục vuông vắn, hình chữ quốc, mỗi mặt 5 gian. Đặc biệt là tòa Cửu phẩm vuông, hai tầng 8 mái, với 4 cột suốt, 12 cột con đỡ, 4 mái dưới, mái tầng trên đỡ thêm bởi 4 cột con. Chùa Động Ngọ còn có nhiều công trình kiến trúc độc đáo bằng đá mới được xây dựng gần đây. Từ cuối thế kỷ XX, đại đức Thích Thanh Thắng, khi về trụ trì tại đây, đã đi khắp các vùng Bắc Bộ kiếm tìm những cối đá, trục đá, cầu đá, quả trục lăn lúa mang về chùa rồi sắp đặt thành các công trình đặc sắc. Nổi bật là bờ tường với chấn song trục đá; hai chiếc giếng tròn được trang trí bằng rất nhiều trục đá, cối đá trước sân chùa; cây cầu đá dài gần 3m; hành lang, lối đi bằng cối đá đủ các kích cỡ. Đặc biệt là tấm bản đồ Việt Nam dài 30m, rộng 10m được xếp bằng khoảng 300 cối đá trong khuôn viên chùa. Chùa có 07 tấm bia cổ hai mặt khắc hai bài ký với hai niên đại sớm gồm: Lý Thái Bình (Lý Thánh Tông, 1054 – 1058, niên hiệu Long Thụy Thái Bình) và Đại Chính nguyên niên (Mạc Thái Tông, 1530). Ngoài ra có một bát hương năm Hoằng Định thứ 19 (1619). Tấm bia “Kiến khai Cửu Phẩm Liên Hoa bi ký" có niên đại năm Chính Hòa thứ 13 (1692) (đời vua Lê Hy Tông), xác nhận niên đại của kiến trúc hiện thời, bia ghi. Cây Cửu Phẩm Liên Hoa hơn 320 năm tuổi là tác phẩm nghệ thuật giá trị và lâu đời nhất tại chùa hiện nay. Năm 2016, Thủ tướng Chính phủ đã công nhận tòa Cửu Phẩm Liên Hoa này là bảo vật quốc gia. Hiện nay tại Việt Nam chỉ tồn tại đúng ba tòa tháp Cửu phẩm liên hoa cổ bằng gỗ, hai tháp còn lại đặt tại chùa Giám (Hải Dương) và chùa Bút Tháp (Bắc Ninh). Cây Cửu Phẩm Liên Hoa đặt ở giữa lòng nội thất tòa (nhà) Cửu phẩm, cao 5m30, mặt cắt 6 cạnh đều, 8 tầng dưới, mỗi tầng cao đều 54 cm, tầng trên cùng cao 98 cm. 9 tầng, 6 mặt, mỗi mặt gắn 3 pho tượng nhỏ, tổng số tượng là 162 pho, năm 1989 còn 146 pho. Ba tượng nhỏ mỗi mặt gồm Phật A Di Đà ở giữa, hai bên là tượng Quan Âm Bồ Tát và Thế Chí Bồ Tát, cũng có cạnh là tượng Phật A Di Đà và Văn Thù Bồ Tát, Phổ Hiển Bồ Tát. Các tượng có kích cỡ bằng bắp tay được tạo tác bằng gỗ, thếp vàng rất tinh xảo. Nhìn tổng thể, tòa cửu phẩm là một kiến trúc đặc sắc về thế giới Phật pháp vô biên, huyền diệu, tầng tầng lớp lớp. Cây Cửu Phẩm Liên Hoa được đặt trên những chiếc chân cột đá hình hoa sen. Trước đây đài cửu phẩm có thể quay tròn quanh trục. Qua thời gian, đến nay đài cửu phẩm không còn quay được nữa. Nguồn Cổng thông tin điện tử xã Tiền Tiến , thành phố Hải Dương.

Hải Dương 159 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Mai Xá ( Đình Mai Hiệp Lực)

Đình Mai Xá (còn có tên gọi là đình Hóp Mòi), thôn Mai Xá, xã Hiệp Lực, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Căn cứ vào kết quả nghiên cứu khảo sát di tích và các thư tịch cổ liên quan, đình Mai Xá là nơi thờ Tứ vị tôn thần gồm: Ông Thinh, Ông Linh, Phúc Chính và Đào Từ Nhân. Trong đó ông Thinh, ông Linh là Thiên Thần, Phúc Chính và Đào Từ Nhân là nhân thần được thờ theo tín ngưỡng dân gian từ lâu đời của nhân dân địa phương. Căn cứ vào tấm bia đá: “Lê triệu vạn vạn tuế, Trịnh chúa vạn vạn niên, Lưu truyền vạn vạn đại, lập miếu đình bi ký” hiện còn lại di tích. Đình Mai Xá được dựng vào năm Chính Hòa thứ 13 (1692) tại xã Lực Đáp, tổng Bất Bế, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương. Vùng đất này là nơi: “ rồng chầu, hổ phục” phía trước có dòng sông quanh co uốn khúc là nơi hội tụ khí thiêng “Địa linh nhân kiệt”, sinh ra nhiều bậc hiền tài có công giúp nước, bảo vệ cuộc sống nhân dân ổn định. Nhân dân đã dựng đình và khắc bia ghi nhận tính danh của những người đóng góp công đức để lưu truyền lâu dài. Kiến trúc tổng thể di tích cũ không còn song căn cứ vào dấu vết nền móng, ngôi đình ban đầu được xây theo kiểu chữ “Đinh” ( J ) gồm 5 gian Đại bái và 3 gian Hậu cung với quy mô khá lớn. Xung quanh đình có nhiều ao hồ. Đình Mai Xá là một trong những kiến trúc cổ đẹp nổi tiếng đương thời trong vùng. Căn cứ vào hệ thống văn khắc Hán nôm hiện còn tại Đại bái, đình Mai Xá được trùng tu vào ngày lành, tháng nhuận, năm Thành Thái- Quý Mão (1903). Các cụ cao niên trong thôn Mai Xá cho biết: lần trùng tu này toàn thể nhân dân trong bản xã đóng góp công đức. Công trình do ông Lê Lương Hãnh- Tiên chỉ làng Mai Xá trực tiếp đặt chồng nóc; ông Mai Quang Oanh làm” Giám biên” (ghi chép), ông Lê Lương Oánh làm “Giám chương” (đôn đốc nhân công), ông Đào Đình Uyển làm “Thủ quỹ” (giữ tiền và mua bán hàng hóa). Hai hiệp thợ Nam Hà cùng thi công, nửa phía tây do thợ Cao Đà, nửa phía đông do thợ Đông Hồ thực hiện. Theo yêu cầu của các Hương lão: sau khi thống nhất quy cách, kiểu dáng, các hiệp thợ bí mật trổ tài, nếu bên nào làm đẹp sẽ được thưởng. Kết quả là cả hai đều chạm khắc rất thành công được bản xã thưởng lớn. Đình Mai Xá là một trong số ít công trình đẹp nổi tiếng trong vùng đương thời. Năm 1946- 1947, hưởng ứng phong trào: “Diệt giặc dốt” do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động, địa phương đã cho tháo dỡ sàn đình để đóng bàn ghế cho các lớp “Bình dân học vụ”, góp phần cùng cả nước “Kháng chiến, kiến quốc” thành công. Năm 1948, Ban thông tin văn hóa xã đã tiến hành vẽ tranh cổ động “Chiến thắng Sông Lô” tại đầu hồi phía Tây và viết khẩu hiệu: “Hồ Chí Minh muôn năm” khá lớn trên mái trước của đình thể hiện quyết tâm chống Pháp của cán bộ nhân dân xã Hiệp Lực. Năm 1949, cuộc kháng chiến chống Pháp diễn ra cam go ác liệt, lực lượng du kích xã quyết định đào hầm bí mật tại Hậu cung đình để bám trụ đến cùng chống Pháp càn quét, bảo vệ quê hương. Tiếp đến năm 1956, đình là nơi chính quyền tổ chức đấu tố địa chủ, thực hiện cải cách ruộng đất thắng lợi. Năm 1965, thực hiện chủ trương “Bài trừ mê tín dị đoan” của huyện, địa phương đã cho giải hạ Hậu cung lấy vật liệu xây dựng công trình phúc lợi trong xã, nhà Đại bái trở thành nơi họp bàn chỉ đạo sản xuất nông nghiệp của xã. Năm 1971, đáp ứng nguyện vọng của toàn thể cán bộ và nhân dân địa phương, Đảng bộ và chính quyền xã Hiệp Lực đã xin phép Tỉnh ủy, UBND tỉnh Hải Hưng tổ chức dựng tượng đài Hồ Chủ Tịch. Công trình đã được thi công nhiều tháng tại đình trước khi đưa về lắp dựng chính thức tại khu vực trung tâm của xã. Những năm gần đây, nhân dân địa phương tự nguyện công đức tu sửa, từng bước trả lại vẻ đẹp vốn có của di tích. Hiện tại đình Mai Xá là nơi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng lành mạnh và học tập đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước của nhân dân địa phương. Vào ngày 10- 15/11 âm lịch hàng năm, nhân dân 3 thôn: Thọ Đa, Hiệp Trung và Tiền Liệt cùng kiệu rước về đình Mai Xá tổ chức lễ hội tôn vinh công đức các Thành Hoàng. Lịch trình lễ hội được quy định khá chặt chẽ. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.

Hải Dương 152 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

ĐÌNH BÀI XANH

Từ thành phố Bắc Giang theo đường quốc lộ 1A mới (Bắc Giang-Hà Nội) đến Khu công nghiệp Đình Trám khoảng 11km rẽ trái 4 km theo đường cấp phối liên thôn là đến di tích đình, chùa Bài Xanh. Thuộc thôn Bài Sanh, xã Vân Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Đường đến di tích rất thuận lợi cho quý khách đến tham quan, tìm hiểu, nghiên cứu bằng nhiều phương tiện giao thông đường bộ. Đình Bài Sanh nằm dưới sườn núi phía Tây của núi Bài (một trong những dãy núi thuộc dải Nham Biền hay núi Neo 99 ngọn). Đình ngoảnh về hướng Nam (ghé Tây) dựa lưng vào núi. Ở hai phía tả hữu, hồi chếch góc đao đằng sau là hai hồ ao nước nhỏ mà nhân dân trong thôn gọi là mắt rồng. Đình Bài Sanh được khởi dựng từ thời Lê, gồm 3 gian hai chái, do hai hiệp thợ cùng làm. Trải qua bao năm tháng, qua thiên tai địch họa đến nay đình vẫn đứng vững trên đất cũ nền xưa. Công trình kiến trúc đã phải trùng tu, sửa chữa nhiều lần vào thời Nguyễn và các giai đoạn sau này. Song vẫn bảo lưu được nhiều tài liệu hiện vật quý. Thời kỳ chống Mỹ, đình Bài Sanh còn là 1 trong những nơi chứa vũ khí của cơ quan quân đội (Bộ Quốc phòng). Các di vật bên trong không còn nhiều như những đình chùa khác, nhưng chúng cũng đủ để góp phần cho giá trị nội dung của di tích này thêm phong phú: Đó là hệ thống bia đá, câu đối, đại tự, sự tích, sắc phong và nhiều đồ thờ tự khác... Đây là một công trình tín ngưỡng văn hoá tiêu biểu của nhân dân địa phương từ xưa để lại. Là nơi thờ Thành hoàng làng là đức thánh Cao Sơn Đại Vương. Đức Cao Sơn quê ở Động Lăng Xương, huyện Thanh Châu, phủ Gia Hưng, đạo Sơn Tây. Ông là con của hai cụ Nguyễn Hành và Đẩu Thị Loan, ông sinh ra là do bố mẹ được báo mộng-người thần đầu thai. Cho nên lớn lên ông rất thông minh võ nghệ, am hiểu thiên thư. Khi đất nước có giặc ngoại xâm, vua Duệ Vương đã hạ chiếu đi khắp nơi tìm người tài giỏi, đức hiền ra giúp nước. Ông liền về triều ứng tuyển và được trọng dụng ngay, ông được Tản Viên Sơn Thanh phong làm tiền đạo thượng tướng quân. Được nhân dân địa phương hết lòng giúp đỡ- thần nhân âm phù, chẳng mấy thời gian Ngài đã làm xong, khi giặc Thục tới nơi liền bị quân tướng của Ngài đánh cho tơi tả (sau đó phải cầu hoà với nhà Hùng). Giặc Thục bình xong, ông trở lại tráng khi trước đã đóng luỹ đồn để báo đáp lòng dân. Xong xuôi ông lại được lệnh hồi triều. Rồi vua cho ông về ăn lộc ở Thanh Hoá và ở đó triều đình có sắc phong cho ông làm Thượng Đẳng Phúc thần và sức cho các nơi mà khi trước đi đánh giặc đã qua được dân trợ giúp phải lập nơi thờ phụng mãi mãi về đức thánh Cao Sơn Đại Vương. Những nét đặc sắc của đình: Giá trị cơ bản của di tích là công trình kiến trúc nghệ thuật: Nó được xây dựng sớm, cấu trúc độc đáo, nghệ thuật chạm khắc điêu luyện. Công trình kiến trúc đình Bài Sanh bao gồm hai hạng mục công trình là đại đình và hậu cung. Mái đình trên bờ nóc không còn bờ dải hoa chanh và rồng chầu mặt nguyệt. Bốn đao đình tạo dáng vẻ mềm mại, uyển chuyển cho công trình kiến trúc cổ này. Toà đại đình được kết cấu 3 gian, 2 chái. Kết cấu kiến trúc kiểu con chồng đấu kê. Ba vì giữa, ở bụng hai phía câu đầu đều có các đầu dư gánh đỡ hài hoà, hình đầu rồng bờm râu nét tua tủa, phần đuôi thò sang đầu cột đằng sau, gắn chặt hài hoà với các cốn hạ. Đình Bài Sanh là một di tích, một công trình kiến trúc cổ, nghệ thuật kiến trúc mang tính chất truyền thống sâu sắc, tiêu biểu thuộc loại hình kiến trúc nghệ thuật độc đáo. Nơi đây không chỉ là nơi phục vụ nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân mà còn là nơi để nhân dân tổ chức hội hàng năm. Từ những giá trị cơ bản đó, có thể xác định Đình Bài Sanh là một quần thể di tích kiến trúc nghệ thuật cổ, quý giá, cần được bảo tồn, phát huy giá trị bằng pháp luật của Nhà nước và sự quản lý sử dụng thường xuyên tự tạo gìn giữ, bảo quản của chính quyền và nhân dân địa phương. Năm 1995, Đình Bài Xanh được Bộ văn hoá Thông tin ra quyết định công nhận là di tích cấp Quốc gia (Quyết định số 2233 ngày 26 tháng 06 năm 1995). NGUỒN:CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ THỊ XÃ VIỆT YÊN TỈNH BẮC GIANG

Bắc Giang 144 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia Mở cửa

ĐÌNH MẬT NINH

Đình Mật Ninh thờ thành hoàng của làng, em họ của Tống Thánh Tản Viên là Sơn Thánh Tản Viên, người đã đánh bại Thục Phán của Tản Thành Tản Viên viên quân. Làng Mật Ninh ngày nay gồm 3 thôn: thôn Đồng Long, thôn Kế và thôn Đình Cả, xã Quang Minh thuộc huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Khác với nhiều làng khác, làng Mật Ninh có 2 nhà công, một nhà công nhỏ gọi là nhà Mọc và một nhà công lớn gọi là nhà Cả hay nhà công Mật Ninh. Đình Mật Ninh nằm ở ven làng, thuộc xóm nhỏ Đình Cả thuộc làng Đông Long. Đường đến khu di tích văn hóa này rất thuận tiện cho việc tìm hiểu của du khách, có thể đi tàu hỏa, ô tô, xe máy, xe đạp … vì đình chỉ cách Quốc lộ 1A và đường sắt Hà Nội – Lạng Sơn khoảng 1,5 km. Làng Mật Ninh ngày nay gồm 3 thôn: thôn Đông Long, thôn Kế và thôn Đình Cả, xã Quảng Môn, huyện Nhạc, tỉnh Bắc Giang. Khác với nhiều làng khác, làng Mật Ninh có 2 ngôi đình, một nhà công nhỏ tên là đình Mọc, một nhà công lớn tên là đình Cả hay còn gọi là đình Mật Ninh. Đình Mật Ninh nằm ở ven làng, thuộc xóm nhỏ Đình Cả thuộc làng Đông Long. Đình Mật Ninh là công trình tín ngưỡng văn hóa. Tiêu biểu của dân thôn với qui mô kiến trúc đồ sộ, nghệ thuật chạm khắc đẹp, tinh tế và tỷ mỷ. Đình được khởi dựng từ thời Lê, cách ngày nay gần 4 thế kỷ. Tấm bia đá cổ hiện nay ở trong hậu cung đình “Hành Huệ lưu phúc chi bi”. Được dựng khắc năm Vĩnh Thọ thất niên (1664). Từ khi khởi dựng đến nay, trải qua trường kỳ lịch sử của quê hương và đất nước. Trải qua bao thời gian, thiên tai và chiến tranh, đình Mật Ninh vẫn đứng vững trên đất cũ nền xưa. Di tích bao gồm nhiều hạng mục công trình, đồ thờ, bia đá, sự tích sắc phong. Nhưng nay chỉ còn lại tòa đại đình và hậu cung. Đây là một công trình cổ mang nét kiến trúc từ thời Lê với lối truyền thống thượng con chồng; hạ kẻ chàng cốn nách. Nền nghệ thuật dân gian của ta vốn có lịch sử lâu đời và cội nguồn bền vững trong nhân dân. Đến nay ở đình Mật Ninh ta lại thấy nó được phục hồi và phát triển mạnh mẽ. Mang theo thẩm mỹ dân gian đó- các nghệ nhân dựng và chạm khắc trang trí đình Mật Ninh. Đã thể hiện trên các chính khối, đường nét chạm trổ của mình. Bằng các đề tài quen thuộc (hoa lá, mây, nước…). Tất nhiên ở giai đoạn này đình Mật Ninh. Cũng như nhiều công trình khác đương thời vẫn không thể không chạm các hình tứ linh. Tứ quý- một biểu tượng quyền uy của giai cấp thống trị phong kiến. Kiến trúc và chạm khắc của đình mang phong cách nghệ thuật thời Lê độc đáo. Các mảng chạm khắc nghệ thuật trên cấu trúc đình và đồ thờ tự. Là yếu tố tạo nên giá trị cơ bản của di tích đình Mật Ninh. Trải qua mấy thế kỷ nhưng đình Mật Ninh. Vẫn cho các nhà nghiên cứu nghệ thuật hôm nay biết được ý nghĩa của cha ông ta từ xa xưa trên từng đường vân, thớ gỗ. Qua đó, ta lại càng thấy được sự lao động sáng tạo nghệ thuật tuyệt vời của thế hệ đi trước. Đã tạo dựng nên một công trình tín ngưỡng- nghệ thuật. Giá trị tồn tại cho đến ngày hôm nay. Cổng đình được xây dựng sau, nhưng xây trát đẹp. Gồm 2 cột đồng trụ đăng đối nhau tạo thành 4 lối đi từ phía chính diện vào sân trước đình. Khiến người đi ngoài đường có thể nhìn ngắm đình được. Tòa đại đình gồm 3 gian, 2 chái, mái lợp ngói ta, 4 đầu đao cong mềm mại uyển chuyển. Trông xa xa khách tham quan hình dung. Đây như 1 chiếc thuyền úp in hình xuống mặt nước của ao hồ phía trước. Nóc đình không còn bờ dải hoa chanh mà thay vào đó là bờ đắp thẳng. Ở giữa có trang trí hình cánh phong, có 4 chữ Hán “Mật Ninh Minh Lệ”. Từ lưng chừng bờ dải nóc chéo xuống đao đình. Hiện vẫn còn các con kìm và hoa chanh trang trí. Đầu đao 2 tầng: tầng trên cong vắt lên như hình đầu phượng; tầng dưới cong vút thương đều lại có con ly chầu lên phía con kìm ở lưng chừng nóc lao xuống. NGUỒN: WPD.COM

Bắc Giang 143 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia Mở cửa

Đình Chiền

Nổi bật giữa trung tâm của làng Chiền là ngôi đình. Đình tọa lạc trên một thế đất cao nhìn ra hướng Tây Nam. Phía trước đình là đường liên thôn, ba mặt xung quanh đình là khu dân cư sum vầy đông đúc. Đình thờ thần Cao Sơn – Quý Minh đại vương và Đổng Đĩnh đại vương, đây là những vị thần đã có nhiều công lao đánh giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc, được các triều đại phong kiến Việt Nam ghi nhận và phong sắc. Theo tư liệu của dòng họ Dương thôn Chiền: vào thời Hậu Lê, họ Dương ở thôn Chiền có ông Dương Quốc Chính làm quan trong triều đã có công xây dựng và tu sửa ngôi đình. Hai tấm bia đá hậu thần dựng vào năm Vĩnh Khánh (1729) hiện còn được lưu ở đây có nội dung cho biết về ghi nhớ công lao của các vị hậu thần đã có công lao với làng và các quy định của làng trong các ngày sự lệ diễn ra tại đình. Như vậy có thể khẳng định đình Chiền đã được khởi công xây dựng từ thời Hậu Lê và đã được tu sửa, tôn tạo lớn ở thời Nguyễn và các giai đoạn sau này. Trải qua năm tháng và chiến tranh ngôi đình đã từng bị thực dân Pháp phá hủy. Năm 1999, cán bộ và nhân dân làng Chiền đã bỏ tiền của, công sức, chung tay dựng lại ngôi đình. Đình Chiền được thiết kế hình chữ Đinh bao gồm tòa tiền đình ba gian hai chái nối với tòa hậu cung ba gian. Trong đình hiện còn lưu giữ được rất nhiều tài liệu, hiện vật quý như ngai thờ, bài vị, hương án, bát bửu, bia đá, hoành phi, câu đối. Đình Chiền vừa được Sở Văn hóa thể thao du lịch Bắc Giang xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Hội làng Chiền diễn ra trong ba ngày 8, 9 và mùng 10 tháng 8 âm lịch hàng năm để dân làng tưởng nhớ tới các vị thành hoàng có công với quê hương, đất nước, cầu cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an. Hội làng Chiền có những tục riêng biệt mà ít nơi có, đó là tục thui trâu tế thần, tục rước cỗ về đình. Lệ làng từ xưa quy định ngày hội làng phải làm lễ thui trâu để tế thành hoàng. Ngay từ sáng sớm hôm khai hội, đại diện Ban tổ chức lễ hội của thôn đã tập trung đông đủ để làm lễ thui trâu. Trâu được chọn mua về giết, đem thui rồi mổ thịt làm cỗ tế các vị thành hoàng, sau đó chia đều cho các hộ dân để làm cỗ trong ngày hội lệ. Trâu để làm lễ phải là trâu mộng to, khỏe, béo, người dân nơi đây quan niệm như vậy mới là điều thành kính với thành hoàng, tăng thêm phần trang trọng, thiêng liêng và đem lại sự may mắn cho dân làng trong cả năm. Ngày khai hội cũng là ngày làng tổ chức lễ rước cỗ về đình. Cỗ được ba thôn Chiền, Si, Giá sửa soạn gồm có xôi, gà, thủ lợn, hoa quả…Đội rước cỗ tập trung tại một địa điểm, sau đó rước về đình lễ thánh. Đi đầu đám rước của mỗi thôn là một gia đình tiêu biểu được làng bầu chọn, suy tôn. Lệ làng ở đây quy định: gia đình được chọn để rước cỗ phải là gia đình có vợ chồng song toàn, thọ từ 75 tuổi trở lên, sống hòa thuận, chấp hành tốt chủ trương chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, hương ước của thôn làng. Đó là một vinh dự của gia đình đồng thời có ý nghĩa giáo dục lớn đối với các tầng lớp nhân dân không ngừng vun đắp hạnh phúc gia đình trọn vẹn. Thui trâu và rước cỗ là hai lệ tục độc đáo ở đây vốn có từ rất xa xưa được lưu truyền cho đến ngày nay. Hội làng Chiền được tổ chức xung quanh khu vực đình trong 3 ngày với nhiều trò chơi dân gian truyền thống như bịt mắt đập niêu, đánh cờ, chọi gà, bắt vịt… thu hút đông đảo nhân dân tham gia. Những năm gần đây Ban tổ chức lễ hội của thôn Chiền cũng đã tổ chức thêm chương trình hát quan họ trên thuyền, giao lưu văn hóa văn nghệ vào buổi tối ngày bế mạc để tăng thêm phần sinh động cho lễ hội. NGUỒN: SỞ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH BẮC GIANG TRUNG TÂM THÔNG TIN - XÚC TIẾN DU LỊCH

Bắc Giang 138 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia Mở cửa

ĐÌNH LŨ PHÚ

Đình Lũ Phú, xưa thuộc làng A Lu, tổng Xuân Đám, huyện Phượng Nhỡn, tỉnh Bắc Giang, nay thuộc xã Xuân Phú, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Theo truyền tích được biết đình Lũ Phú được xây dựng từ lâu đời theo kiểu chữ Nhất trên mảnh đất có tên là Bãi Đồn, niên đại chính xác được khắc trên tấm bia hiện còn được bảo lưu tại đình vào thời Lê Trung Hưng, tháng 10 năm Canh Ngọ – năm 1680, ngôi đình được nhân dân đại trùng tu với dáng vẻ uy nghi, cổ kính với bình đồ kiến trúc hình chữ công, gồm 7 gian tiền tế, 3 gian ống muốn, 3 gian hậu cung, hai bên có hai dãy tả vu, hữu vu, trước cửa đình có cây đa và cây kéo cổ thụ…Ngày 21 tháng 10 năm 1953, ngôi đình bị bom Pháp tàn phá, dân xã tận dụng toàn bộ nguyên vật liệu để xây 12 gian lớp tiểu học, một nhà trạm xá 3 gian và một trụ sở Uỷ ban nhân dân xã 5 gian…như vậy có thể thấy, trước đây quy mô của đình Lũ Phú rất lớn. Năm 1991, nhân dân địa phương đại trùng tu lại ngôi đình khang trang tố hảo như hiện nay. Ngôi đình hiện tọa lạc trên một khu đất cao rộng thuộc xóm Đình Phú, trước cửa đình là ao đình, phía tả có ngôi chùa Quang Long cổ kính, xung quanh là đường liên thôn và khu dân cư bao bọc. Ngôi đình có bình đồ kiến trúc hình chữ đinh, nghệ thuật chạm khắc dân gian được in đậm trong tòa đại đình và hậu cung, đình vẫn còn bảo lưu được gần như nguyên vẹn lối kiến trúc truyền thống của một ngôi đình cổ thời Lê Trung Hưng, các mảng chạm khắc của bức cửa võng là sự thể hiện phong phú và sinh động nghệ thuật chạm khắc tinh xảo, với các mảng hoa văn khắc nổi về các đề tài tứ linh, tứ quý…Những hiện vật tiêu biểu trong đình Lũ Phú có thể kể đến tấm bia đá khắc vào tháng 10 năm 1680, 3 đạo sắc phong của vương triều Nguyễn, ngai thờ, bài vị thời Nguyễn (thế kỷ 19)… Đình Lũ Phú thờ Tướng quân Vũ Thành và Hà Công Khánh tước vị Hán quận công hàm đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân và phu nhân là bà Hoàng Quý Thị làm thành hoàng làng. Các vị thành hoàng tại đình Lũ Phú là những danh tướng tài ba, lỗi lạc có nhiều công lao trong cuộc kháng chiến bảo vệ nền độc lập dân tộc, trấn ải miền Đông Bắc tổ quốc. Ngoài giá trị văn hóa, đình Lũ Phú còn là nơi diễn ra nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của quân và dân địa phương. Tại đình Lũ Phú, năm 1944, đồng chí Hoàng Quốc Thịnh đã từ nghè Từ Vũ lãnh đạo nhân dân tổ chức mít tinh tại đây. Tháng 4 năm 1945, nhân dân địa phương tụ họp tại đình làm lễ tế cờ cách mạng, rước đuốc, diễu hành quanh khu vực Lũ Phú thị uy biểu dương lực lượng. Tháng 6 năm 1945, bắt các Lý trưởng ra đình nộp tiền thuế, tiền bán muối, bán diêm cho Uỷ ban giải phóng. Ngày 20 tháng 7 năm 1945, đình Lũ Phú là nơi thành lập tự vệ làng Lũ Phú (còn có tên là đội tự vệ Sao Vuông) tiền thân của đội du kích xã Lũ Phú sau này. Cuối năm 1945, đồng chí Vũ Hồng Quang, đặc phái viên của Tỉnh ủy đã về đình Lũ Phú chỉ huy bắt phản động Quốc dân Đảng là Chánh Thống, người Bắc Ninh trốn về đây và tên Ký Thảo. Ngày 19 tháng 12 năm 1946, dân quân Lũ Phú tập trung trại đình xuất phát kéo lên Bắc Giang đánh Pháp… Đặc biệt, theo nội dung bản lý lịch di tích đình Lũ Phú được Hội đồng khoa học cấp tỉnh duyệt năm 2003, có ghi về sự kiện lịch sử trọng đại của nhân dân xã Xuân Phú đó là vào đầu năm 1946, nhân dân trong vùng đã tập trung tại đình Lũ Phú để bầu cử Quốc hội khóa I và bầu Hội đồng nhân dân xã lần thứ nhất. “Thắng lợi của Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khoá I đã thể hiện ý chí, quyết tâm và sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng chính quyền của nhân dân, đồng thời phản ánh sự tin tưởng sâu sắc của Đảng đối với quần chúng cách mạng”. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đình Lũ Phú là địa điểm thường xuyên hội họp để bàn kế hoạch chỉ huy tác chiến, là địa điểm tập trung luyện quân và cũng là địa điểm kết nạp Đảng viên mới, nơi tổ chức các lớp học bình dân học vụ và là địa điểm đặt trường tiểu học của xã… Đình Lũ Phú là nơi diễn ra và chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của nhân dân trong vùng và cũng là nơi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng, nơi tổ chức lễ hội truyền thống hàng năm. Lễ hội cổ truyền được tổ chức vào ngày 8 và ngày 9 tháng Giêng (Âm lịch) hàng năm. Với những giá trị trên đình Lũ Phú đã được UBND tỉnh Bắc Giang xếp hạng là di tích Lịch sử – Văn Hóa theo Quyết định số 86/QĐ-CT, ngày 30 tháng 01 năm 2004. NGUỒN: SỞ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH BẮC GIANG TRUNG TÂM THÔNG TIN - XÚC TIẾN DU LỊCH

Bắc Giang 158 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia Mở cửa

Đền Cầu Khoai

Nói đến Yên Thế là người ta nói đến hình ảnh Hoàng Hoa Thám - Người anh hùng áo vải đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế kéo dài nhất trong các cuộc khởi nghĩa chống lại ách thống trị của thực dân Pháp, kéo dài ngót 30 năm (1884-1913), là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu cho phong trào yêu nước của dân tộc ta trước khi có Đảng lãnh đạo. Hình ảnh người anh hùng áo nâu Hoàng Hoa Thám cùng những dấu tích về cuộc khởi nghĩa luôn in đậm trên các công trình kiến trúc gồm đình, đền, chùa, đồn lũy. Trong đó phải kể đến đền Cầu Khoai, một điểm di tích quốc gia đặc biệt thuộc xã Tam Hiệp, huyện Yên Thế. Di tích đền Cầu Khoai nằm cách thành phố Bắc Giang khoảng 30km, cách trung tâm thị trấn Cầu Gồ khoảng 2km về hướng Tây Bắc. Di tích đền Cầu Khoai hay còn gọi là đền Cô, một cách gọi để tưởng nhớ tới công ơn của 2 cô gái được thờ trong đền là Đàm Thị Dung Hoa sinh năm 1507 và Đàm Thị Quế Hoa sinh năm 1510, con của vị quan lớn Đàm Thận Huy dưới triều Lê-Mạc. Ông đã có nhiều công lớn với dân, với nước, được sử sách ghi nhận trong việc chống lại nhà Mạc. Khi Đàm Thận Huy mất, hai người con của ông là Đàm Dung Hoa và Đàm Quế Hoa tiếp tục cầm quân chống giặc thêm 3 ngày nữa. Khi lên đến bản Diễn, xã Tam Tiến, biết không thể chiến đấu được nữa, hai cô mới chịu tuẫn mình xuống dòng sông Sỏi với mục đích bảo toàn danh tiết. Để tưởng nhớ công ơn hai bà, người được dân địa phương lập đền tôn thờ. Sau này nhân dân địa phương lại dựng thêm một ngôi chùa phía sau đền thờ gọi là chùa Hoài Âm để cầu báo ân đức và lưu giữ tiếng thơm của hai cô con gái họ Đàm đã hy sinh ở vùng đất này. Đền Cầu Khoai là một trong số nhiều điểm căn cứ của nghĩa quân, là nơi ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử gắn liền với cuộc khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo. Quần thể di tích còn nằm trong số đất đai do nghĩa quân Yên Thế cai quản, xung quanh khu vực đền là cả một hệ thống đồn lũy. Tại đây, nghĩa quân Yên Thế và thực dân Pháp đã nhiều phen ở thế giằng co quyết liệt, nghĩa quân tiêu diệt được nhiều sinh lực địch. Rộng ra cả vùng đất Tam Hiệp là địa phận hoạt động mạnh mẽ của nghĩa quân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám chỉ huy cùng các tướng lĩnh của ông như Cả Trọng, Cả Dinh, Cả Huỳnh... Nhiều trận đánh ở vùng đất này đã được sử sách ghi lại như trận Đồn Hòn, Trại Tre, Đồn Hom, đồn Hang Sọ…Vùng đất và con người nơi đây đã cung cấp lương thực, thực phẩm và nhân lực cho căn cứ đồn Hom, góp phần không nhỏ trong việc đẩy lùi cuộc tấn công với quy mô lớn của thực dân Pháp lên Yên Thế ngày 23/5/1892. Đền Cầu Khoai được xây dựng vào năm 1524 và đã được trùng tu tôn tạo qua nhiều giai đoạn. Quần thể di tích hiện nay gồm các hạng mục công trình: Cổng đền, khuôn viên, khu đền chính và chùa Hoài Âm. Tất cả tọa lạc trong khu đất rộng đẹp nhìn ra quốc lộ 17 bên kia là khu căn cứ đồn Hom của nghĩa quân Yên Thế. Ngôi đền hiện có kiến trúc kiểu chữ đinh, gồm tòa tiền tế và hậu cung. Trong hậu cung bài trí tượng thờ 2 cô và các thị nữ hầu cận. Phía sau ngôi đền là chùa Hoài Âm được nhân dân địa phương xây dựng với ý nghĩa cầu báo ân đức siêu thoát cho linh hồn hai cô con gái họ Đàm. Để tưởng nhớ tới công ơn của hai cô con gái họ Đàm, vào ngày 23 tháng giêng hàng năm, Đảng ủy, UBND xã Tam Hiệp và nhân dân địa phương lại tưng bừng tổ chức lễ hội để tưởng nhớ, ôn lại truyền thống lịch sử vẻ vang, công lao to lớn của Đàm Thận Huy và 2 cô con gái; tôn vinh các tấm gương đã anh dũng, hy sinh trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Lễ hội được tổ chức gồm 2 phần gồm Lễ dâng hương và phần Hội được tổ chức với nhiều hoạt động văn hóa, thể thao, các trò chơi dân gian mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc như: bịt mắt bắt dê, đập niêu, kéo co, hội diễn văn nghệ quần chúng, ném còn, chọi gà, cờ tướng, bóng đá... thể hiện tinh thần thượng võ và khát vọng tự do của người dân địa phương. Di tích đền Cầu Khoai không chỉ có ý nghĩa và giá trị về mặt lịch sử, Đền còn là nơi sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân, là điểm thu hút đông đảo các du khách thập phương trong và ngoài tỉnh về thăm quan, nghiên cứu. Với ý nghĩa lịch sử và giá trị của di tích, ngày 10/5/2012 Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 548/QĐ-TTg về việc xếp hạng di tích Quốc gia đặc biệt đối với Di tích lịch sử “Những địa điểm khởi nghĩa Yên Thế”; trong đó đền Cầu Khoai xã Tam Hiệp là một trong 23 điểm di tích quốc gia đặc biệt./. NGUỒN: SỞ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH BẮC GIANG TRUNG TÂM THÔNG TIN - XÚC TIẾN DU LỊCH

Bắc Giang 143 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia Mở cửa

Cụm Di tích Tiên Lục

Đến Bắc Giang du khách sẽ được tham quan, tìm hiểu về những giá trị lịch sử nghệ thuật của những ngôi chùa cổ kính, được khám phá trải nghiệm với những cảnh quan thiên nhiên kỳ thú mà tự nhiên ưu đãi cho Bắc Giang và Cụm di tích Tiên Lục là một trong những điểm dừng chân lý tưởng cho du khách gần xa. Nằm cách thành phố Bắc Giang khoảng 20km về phía Đông Bắc thuộc xã Tiên Lục huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Cụm di tích Tiên Lục gồm một quần thể di tích nằm trong không gian thoáng đãng, thơ mộng của một vùng trung du tràn đầy sức sống. Cụm di tích Tiên Lục gồm: Cây Dã Hương ngàn năm tuổi, đình Viễn Sơn, Chùa Phúc Quang, đình Thuận Hòa... Cụm di tích Tiên Lục đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử cấp Quốc Gia và đã trở thành điểm đến hấp dẫn cho du khách trong và ngoài nước. Điểm đến thứ nhất đó là Cây Dã Hương nghìn năm tuổi. Theo các nhà khoa học, cây này được vua Lê Cảnh Hưng phong cho là “ Quốc chúa đô mộc Dã Đại Vương” Năm 1989, Bộ Văn hóa - Thông tin đã xếp cây dã hương ở Bắc Giang nằm trong quần thể cụm di tích quốc gia (gồm cây dã hương, đình Viễn Sơn, chùa Phúc Quang, đình Thuận Hòa...). Theo ước lượng, gốc cây dã hương to đến 8 người ôm, còn theo những người làm công tác nghiên cứu vòng đo điểm to nhất của thân cây là 11m, chỗ nhỏ nhất là 8,3m, cây cao khoảng 36m, có đường kính trên 2,5m. Lớp vỏ cây trung bình dày 15cm. Tán cây dã hương xòe phủ kín mái đình Tiên Lục, tạo ra một cảnh quan đặc sắc cho một vùng quê giàu di tích văn hóa. Hoa dã hương thường nở vào cuối xuân đầu hè, màu vàng nhạt, cánh nhỏ li ti và có mùi thơm tựa hoa dạ lan Cây không chỉ là nét đẹp của cảnh quan môi trường, cảnh quan thiên nhiên mà còn là nét đẹp văn hóa, biểu tượng rất đỗi mộc mạc, thân thiết, linh thiêng trong không gian văn hóa Việt. Theo người dân ở đây thì mỗi một cành cây gãy là thể hiện một sự kiện báo hiệu một sự chuyển biến lớn của đất nước như: Năm 1945 cành dã hương lớn phía đông bắc gãy là lúc Cách mạng Tháng Tám thành công; Năm 1954, cành phía tây gãy là năm chiến thắng Điện Biên Phủ; Năm 1964 cành phía nam gãy gắn với sự kiện Vịnh Bắc Bộ chiến tranh mở rộng ra miền Bắc; Năm 1975 cành phía tây gãy gắn với sự kiện giải phóng miền Nam thống nhất đất nước; Năm 2006 một cảnh ở đỉnh ngọn phía Nam gãy thì năm đó nước ta gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO) Điểm đến tiếp theo đó là chùa Phúc Quang hay nhân dân vẫn gọi là Phúc Quang Tự - một ngôi chùa cổ đã gần 300 năm tuổi, nằm ngay cạnh đình Thuận Hòa và trụ sở ủy ban nhân dân xã Tiên Lục, huyện Lạng Giang, ở ven đường tỉnh lộ ĐT295 được coi là nơi thờ tự linh thiêng, có kiến trúc độc đáo và gắn với những câu chuyện kỳ bí nhất. Văn bia tại đây cho biết chùa được thành lập từ mùa xuân năm Long Đức thứ ba (20-3-1734) dưới thời vua Lê Thuần Tông, bên cạnh một ngôi chùa cổ hơn do sư cụ Chiếu Chiêm kêu gọi nhân dân hợp sức xây dựng. Trải qua gần 300 năm tuổi, hiện nay chùa vẫn lưu giữ được chiếc chuông lớn có từ ngày đầu và khoảng 90 pho tượng Phật giáo quý giá. Tuy nhiên những mảng điêu khắc gỗ đá hầu như đã không còn nữa.Trong suốt những năm tháng chiến tranh, mặc dù các xã xung quanh bị bom đạn oanh tạc đến xơ xác, riêng chùa Phúc Quang và xã Tiên Lục vẫn được bảo vệ an toàn. Nhân dân địa phương do đó càng tin chắc rằng chính ngôi chùa cổ đã trấn giữ vùng đất này, giúp họ an cư lạc nghiệp. Theo truyền thuyết xưa kia có một vị vua mặc thường phục vi hành, vô tình đi qua ngôi chùa Phúc Quang. Vì trước đó có hiềm khích với đạo Phật nên vị vua này đã để lại lời nguyền: bất kỳ nhà sư nào cũng không được ở trong chùa này. Người dân nghĩ đó chỉ là câu nói buột miệng của vua nên không để tâm.Cho đến sau này, có một thiền sư được giao đến trông nom chùa, nhưng vừa bước tới Tam Bảo đã bị rắn cắn nên sợ quá bỏ chùa. Những vị sư tiếp đó đến chùa chỉ ở được một thời gian rồi cũng phải ra đi. Dân chúng khi ấy mới nhớ đến vị vua lạ và bắt đầu lan truyền câu chuyện rắn thần ứng nguyện lời nguyền cản bước các vị sư.Gần đây nhất có sư Huệ Cửu về trụ trì từ năm 2010. Tuy nhiên, chưa đầy 3 năm sau, sư gọi xe giữa đêm, thu dọn hành lý bỏ đi không lời từ biệt, đến sáng người dân trong làng mới biết. Sau đó không ai nghe tin gì về sư Huệ Cửu nữa. Tiếp theo có vài vị sư khác đến thăm chùa cũng muốn ở lại, nhưng sau khi thắp hương khấn vái và nhìn cây hương có dòng chữ Nho họ đều lẳng lặng ra đi, không bao giờ trở lại... Chùa Phúc Quang gần đây phần lớn đã được trùng tu, nhìn chung vẫn mang dáng vẻ của nghệ thuật kiến trúc thời Nguyễn. Chùa tọa lạc trên một gò đất thấp, mặt quay hướng nam nhìn ra một sân gạch rộng có những cây nhãn lâu năm, xa hơn là vườn cổ thụ. Bên tiền đường hữu là dãy nhà giải vũ 3 gian 2 dĩ, bên tả là mặt sau của ngôi đình làng cũng mới tu sửa. Chùa được xây dựng với mặt bằng theo hình "nội Công ngoại Quốc". Tiền đường rộng 7 gian cửa bức bàn, hai bên thiêu hương có cặp tượng Hộ Pháp khá to. Thượng điện gồm đầy đủ những pho tượng Bắc Tông, ánh sáng chủ yếu lấy từ hai cửa ngách thông sang hai dãy hành lang nơi đặt các pho tượng La Hán và Bát bộ Kim Cương. Tất cả các tượng đều mới tô lại. Phía cuối hai hành lang nối liền tòa hậu đường làm theo kiểu hai tầng chồng diêm, có cầu thang dốc để lên gác chuông. Cuối cùng nằm trong cụm di tích Tiên Lục là Đình Thuận Hoà: Đình Thuận Hoà hay còn được nhân dân trong vùng quen gọi là đình Cây Bàng. Đình tọa lạc trên một khu đất rộng và bằng phẳng kề sát ngay đình là cây bàng cổ thụ um tùm quanh năm tỏa bóng mát, phía trước đình là đường 295 từ Vôi đi Tiên Lục, đình cách đồi thông chừng hơn 100m. Đình Thuận Hoà được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ XVIII, đình thờ 2 vị thành hoàng làng là Cao Sơn và quý Minh. Đình có lối kiến trúc hình chữ đinh gồm 5 gian đại đình và 3 gian hậu cung. NGUỒN: SỞ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH BẮC GIANG TRUNG TÂM THÔNG TIN - XÚC TIẾN DU LỊCH

Bắc Giang 137 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia Mở cửa

Đình Đỗ Xá

Đình Đỗ Xá xã Ứng Hoè, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương được xếp hạng là di tích kiến trúc - nghệ thuật cấp Quốc gia theo Quyết định số 05/1999 Quyết Định/Văn hóa thể thao, ngày 24 tháng 01 năm 1999. Đình Đỗ Xá có tên chữ: Đình Đỗ Xá, tên nôm: Đình Đọ, tên thường gọi: Đình Đỗ Xá. Đình tọa lạc trên một khu đất cao ráo, bằng phẳng ở trung tâm của thôn Đỗ Xá. Thôn Đỗ Xá thời xa xưa là Trang Đỗ Xá, thời Lê là xã Đỗ Xá tổng Đông Cao huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương, thời Nguyễn là xã Đỗ Xá, tổng Đỗ Xá, huyện Vĩnh Lại, phủ Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Đình Đỗ Xá từ ngày khởi dựng đến nay được mang tên gọi của thôn Đỗ Xá. Ngược dòng lịch sử căn cứ vào tên gọi của thôn Đỗ Xá và gia phả của một số dòng họ được biết khởi nguyên của cư dân thôn Đỗ Xá là hai dòng họ lớn là họ Đỗ và họ Nguyễn. Hiện nay hai dòng họ này chiếm đại bộ phận dân số trong thôn. Căn cứ vào truyền thuyết trong nhân dân địa phương và những tư liệu Hán, Nôm nhất là thần tính hiện lưu giữ tại Đình cho thấy Đình Đỗ Xá được xây dựng để thờ 03 anh em Nguyễn Tôn, Nguyễn Lâu và Nguyễn Lãng đã có công phò vua Lê Lợi trong cuộc khởi nghĩa chống giặc Minh thế kỷ XV. Giặc Minh sang xâm lược nước ta, tội ác của chúng chồng chất cao như núi không sao kể xiết. Nhân dân ta không chịu cảnh nước mất, nhà tan đã vùng dậy đấu tranh. Ở vùng Lam Sơn (Kẻ Cham) nay thuộc huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa có người anh hùng Lê Lợi đứng lên chiêu mộ nhân sỹ, hào kiệt, tập luyện nghĩa quân cùng nhau đánh giặc cứu nước. Thuở ấy ở Thái Bình có một người tên là Nguyễn Chuyên, vợ là Đào Thị Lợi hai vợ chồng cưới nhau đã lâu nhưng chưa có con, một đêm bà ngủ mộng thấy một cụ già cho ba quả đào rồi biến mất, sau đó bà thụ thai đủ tháng rồi sinh ra một cái bọc có 03 người con trai. Ông bà vui mừng đặt tên cho ba con là Nguyễn Tôn, Nguyễn Lâu và Nguyễn Lãng, ba đứa trẻ lớn lên có diện mạo khôi ngô, tuấn tú, năm lên 7 tuổi đã tinh thông kinh sử, võ nghệ cao cường, tài năng nổi tiếng. Năm 15 tuổi, các ông đã sớm phát lộ tài năng văn, võ. Năm 1418, Lê Lợi khởi nghĩa Lam Sơn, chọn người giúp nước, biết ba ông có tài, Lê Lợi đã phong Nguyễn Tôn làm Đô chỉ huy sứ đương lộ tướng quân, Nguyễn Lâu làm Tả Đô đài tướng quân, Nguyễn Lãng làm Hữu Đô đài Thái bảo tướng binh. Ba ông bái lĩnh 5.000 quân, khí giới, lương thực, cờ xí, chiêng, trống. Sau một đêm, nghĩa quân tiến binh về trang Đỗ Xá, phủ Hạ Hồng, đạo Hải Dương nay là thôn Đỗ Xá, xã Ứng Hòe, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương lập đồn trú để tuyển quân. Trận đánh diễn ra ác liệt, quân giặc đại bại. khởi nghĩa thắng lợi, ba ông khao thưởng quân sĩ. Quốc an hưởng lạc, khai hóa ruộng đồng, nhân dân phú túc phồn vinh. Bỗng một hôm trời nổi phong ba có đám mây 3 màu tím, đỏ, hồng bao phủ ba ông thượng khứ tòng vân không thấy trở về, hôm đó là vào ngày 10 tháng 3 nhân dân gọi là ngày hóa. Sau này vào ngày mùng 10 tháng 3 cấm vui chơi, ca hát, cấm dùng các màu tím, đỏ, hồng. Lê Lợi sai sứ về cắt ruộng xây miếu thờ và phong là Thượng đẳng thần: Nhất phong Minh Tôn Đại vương, Nhất phong Khổng Lâu Đại vương, Nhất phong Tăng Lãng Đại vương. Đình Đỗ Xá xây dựng vào thời Hậu Lê với quy mô khá lớn. Để ghi nhớ công lao của ba ông hàng năm vào ngày 11 tháng 11 (âm lịch) nhân dân mở hội tế lễ 10 ngày để kỷ niệm ngày sinh và ngày mất. Trong lễ hội ngoài tế lễ còn tổ chức hát chèo, múa rối nước và thi pháo đất. Đình Đỗ Xá không chỉ gắn liền với tên tuổi của ba vị tiền bối đã có công trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh thế kỷ XV mà còn gắn liền với nhiều sự kiện lịch sử của địa phương. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp 1946-1954 nhiều hầm hào bí mật đã được đào trong hậu cung đình, bộ đội chủ lực của huyện Ninh Giang đã nhiều lần đến đóng và trú ẩn tại đây. Năm 1946 Đình là nơi nhân dân tiến hành bầu cử Quốc hội Khóa 1, Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ năm 1966 đến năm 1969, từ năm 1972 đến năm 1973 tiền tế của Đình Đỗ Xá được sử dụng làm hội trường phân hiệu II - trường Nguyễn Ái Quốc trung ương. Năm 1967 đồng chí Lê Duẩn lúc đó là Bí thư thứ Nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đã về thăm và nói chuyện với nhân dân địa phương tại Đình làng Đỗ Xá. Từ năm 1974 đến nay tiền tế Đình Đỗ Xá được sử dụng làm hội trường của xã đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử của nhân dân thôn Đỗ Xá nói riêng và chính quyền xã Ứng Hòe nói chung. Phát huy truyền thống của cha ông, Đảng bộ và nhân dân xã Ứng Hòe đã không ngừng phấn đấu xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.

Hải Dương 152 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Quan Lớn Tuần Tranh ( Đền Tranh )

Đền Tranh tọa lạc tại thôn Tranh Xuyên, xã Đồng Tâm, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương với tổng diện tích là 29.417m2. Đền Tranh thờ Quan đệ Ngũ Tuần Tranh là vị tôn quan thứ 5 trong Ngũ vị Tôn Ông của tín ngưỡng thờ Tứ phủ trong dân gian của người Việt. Hiện di tích đền Tranh tọa lạc trên khuôn viên rộng rãi với 34 gian lớn nhỏ, bao gồm 7 gian tiền tế, 7 gian trung từ, 7 gian nhà nối, 3 gian cổ dải, 3 gian hậu cung, 7 gian đông vu và nhiều công trình phụ trợ khác như tòa đông vu gồm 7 gian đao tầu déo góc, chất liệu bằng gỗ lim, lợp ngói mũi; nghi môn được xây dựng theo kiểu "chồng diêm cổ các", gồm 2 cửa phụ một cửa chính, quy mô lớn như nghi môn xưa; nhà bia, đài hóa sớ… Ông Vũ Đình Tiến, Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hải Dương cho biết, đền Tranh xã Đồng Tâm, huyện Ninh Giang được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích Kiến trúc nghệ thuật quốc gia theo Quyết định số 1214/Quyết định -Bộ văn hóa , thể thao và du lịch, ngày 25/3/2009. Lễ hội truyền thống đền Tranh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 781/Quyết Định -Bộ Văn hóa , thể thao và du lịch ngày 4/4/2022. Đây là tài nguyên nhân văn quý giá, có vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần không chỉ của cộng đồng nhân dân địa phương mà còn của cả con dân đất Việt, điều đó càng khẳng định cho việc xác định tiềm năng, thế mạnh của di tích trong việc đóng góp vào sự phát triển du lịch của huyện Ninh Giang nói riêng, tỉnh Hải Dương nói chung. Nguồn Bộ Văn hóa , thể thao và du lịch.

Hải Dương 160 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Sùng Ân (chùa tế cầu)

Chùa Sùng Ân thuộc thôn Đông Cao, xã Đông Xuyên, huyện Ninh Giang (Hải Dương) được xếp hạng Di tích lịch sử văn hoá quốc gia ngày 15/3/1974 về nghệ kiến trúc điêu khắc. Đây cũng là ngôi chùa được xếp hạng di tích Quốc gia sớm nhất của huyện. Trước đây chùa Sùng Ân đón các sư, sãi về dáng hạ vào tháng ba hàng năm và là chốn Tổ của thiền phái trúc lâm vùng đất xứ Đông Hải Dương. Di tích ở thôn Đông Cao, xã Đông Xuyên, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Chùa đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hoá quốc gia từ ngày 15/3/1974. Lịch sử – kiến trúc Chùa có từ thời Lý, được trùng tu vào thời Trần. Quy mô chùa khá lớn, bố cục kiểu nội Công ngoại quốc . Mái lợp ngói mũ hài cổ kính. Chùa thờ Phật và thờ Huyền Quang đại sư thuộc phái Trúc Lâm thời Trần. Di vật Chùa còn một cây thiên đài bằng đá cao 1.7 m dựng năm Cảnh Trị 9 (1671), 6 sấu đá, 3 bia đá thế kỷ XVII, một hệ thống 30 tượng Phật gỗ sơn thếp vàng, nghệ thuật điêu luyện, nhưng trong 10 năm qua, 9 trong số 30 pho tượng cổ đã bị kẻ gian lấy trộm. Nhà tiền đường có một quả chuông, đúc năm Gia Long 11 (1812) thân cao 90 cm, đường kính 62.5 cm, toàn thân phủ kín bài minh, rất đẹp. Đặc biệt là bệ đá hoa sen hình lục giác 2 tầng có chạm rồng mào lửa, thân nhiều nếp gấp khúc. Chùa Sùng Ân có diện tích gần 5000m2. Quy mô chùa gồm một chùa chính được xây dựng kiểu chữ Đinh, động thờ Mẫu, nhà thờ Tổ. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, chùa Sùng Ân là nơi sơ tán, nuôi dấu cán bộ Việt minh. Hàng năm vào ngày 15/3 Âm lịch nhân dân mở hội. Trong những năm qua, cán bộ nhân dân thôn đã quyên góp trên 1 tỷ đồng và hàng nghìn ngày công để xây dựng các hạng mục tường bao, nhà khách, giếng ngọc, và sân. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Ninh Giang , tỉnh Hải Dương.

Hải Dương 154 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di Tích Lịch Sử Cách Mạng Đông Bó Lình

Di tích lịch sử cách mạng Đông Bó Lình Ngày 08/3/1932 đồng chí Dương Công Hoạt thay mặt Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Cao Bằng đã giới thiệu và kết nạp các đồng chí vào Đảng Cộng sản Việt Nam: 1. Đồng chí Ma Kiên Kiện (Tức Ma Trung Lâm) sinh năm 1914, dân tộc Tày 2. Đồng chí Ma Kiên Mới (Tức Hồng Hải) sinh năm 1917, dân tộc Tày 3. Đồng chí Ma Kiên Hoạch (Tức Hồng Chi) sinh năm 1914, dân tộc Tày 4. Đồng chí Ma Kiên Tích (Tức Hồng Lạc) sinh năm 1914, dân tộc Tày Chi bộ Cốc Coóc là chi bộ Liên châu Quảng Uyên - Phục Hoà đồng thời là chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên ở miền đông tỉnh Cao Bằng, được BCH Đảng bộ tỉnh Cao Bằng chính thức công nhận; đồng chí Ma Trung Lâm được bầu làm Bí thư chi bộ. Nhiệm vụ đầu tiên của chi bộ Cốc Coóc đã thực hiện ngay những nhiệm vụ mà Chi bộ Hải Ngoại Long Châu (Trung Quốc ) và chi bộ Nặm Lìn đang thực hiện đó là: Bí mật chuyển sách báo, tài liệu, đưa đón các chiến sĩ hoạt động cách mạng, học tập giữa các vùng, tích cực phát triển đảng, đẩy mạnh phong trào chống thuế, chống phụ phu, lạm bổ, chống bắt phu ngày mùa, đi phu phải được tiền, gạo. Di tích lịch sử cách mạng Đông Bó Lình được xây dựng từ ngày 07/3/2012, hoàn thành ngày 19/5/2013. Quyết định số 2917/Quyết Định -Uỷ Ban Nhân Dân ngày 11/11/2005 của Ủy ban nhân dân tỉnh công nhận Đông Bó Lình là Di tích lịch sử cách mạng – nơi thành lập chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên của Liên châu Quảng Uyên – Phục Hòa (nay là huyện Quảng Hòa) ngày 08/3/1932. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Quảng Uyên , tỉnh Cao Bằng .

Cao Bằng 198 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Miếu Quan Đế

Tại xã Ngọc Động (Quảng Uyên) có miếu Quan Đế đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh công nhận Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh. Ngôi miếu có ý nghĩa và gắn bó với từng giai đoạn lịch sử thăng trầm ở vùng đất này. Miếu Quan Đế được xây dựng tại đầu chợ Đống Đa, xã Ngọc Động thờ nhân vật Quan Vân Trường, một vị tướng thời Tam Quốc (Trung Quốc). Theo quan niệm của người Việt, thờ Quan Công là do cảm phục và ngưỡng mộ tài đức của ông. Tại Cao Bằng hiện nay có nhiều miếu, đền thờ Quan Công ở các huyện: Bảo Lạc, Trà Lĩnh, Trùng Khánh… và miếu Quan Đế tại xã Ngọc Động. Theo kết quả khảo sát của Bảo tàng tỉnh, miếu có thể được xây dựng vào năm Tự Đức thứ 36 (tức năm 1882) dựa vào niên đại được ghi trên bức đại tự trong miếu và hoa văn trang trí một số mảng kiến trúc còn lại của miếu. Nhìn tổng thể, ngôi miếu có một gian nhà diện tích trên 40 m2, bên cạnh miếu có một gian nhỏ thờ thổ địa. Tổng diện tích 2 gian trên 57 m2 đều được xây dựng theo kiểu nhà trình tường. Vật liệu chính tạo nên những bức tường trình vững chắc là loại đất sét đỏ mịn kết hợp với vôi và mật mía được nhào thật kỹ tạo nên hỗn hợp có độ kết dính cao, lớp tường dày 30 đến 35 cm. Hệ thống mái lợp ngói máng, kếu cấu vì kèo bằng gỗ. Hệ thống bệ thờ, tượng thờ trong miếu, gồm: Bệ thờ ngoài được xây dựng bằng gạch cao 73 cm, dài 2,2 m dùng để đựng bát hương, nến và đồ cúng khác. Bệ thờ trong cao 62 cm, dài 1,8 m, rộng 1,4 m có 4 bức tượng: Tượng trong cùng là tượng Quan Công cao 120 cm mặc áo vàng, đội mũ cánh chuồn màu đỏ, râu đen dài, đang trong tư thế ngồi; hai tượng binh sỹ hai bên cao 50 cm, tượng bên phải mặc áo đỏ nhạt tay cầm đao, tượng bên trái mặc áo vàng tay cầm lao, 2 tượng đều trong tư thế đứng; 1 tượng phụ giúp việc Quan Công cao 57 cm mặc áo xanh trong tư thế ngồi. Các tượng đều được tạo tác thủ công bằng chất liệu đất sét, trát xi măng, phủ màu bên ngoài. Trong miếu còn có nhiều hoành phi, câu đối bằng chữ Hán, ngoài miếu có bia đá ghi lại ân đức vị thần được thờ trong miếu. Ông La Văn Quỳnh đã sinh sống nhiều đời giáp phía Tây miếu chia sẻ: Hằng năm tại miếu có tổ chức những ngày lễ trong năm, như: Ngày 2/2 làm lễ cúng thần; ngày Thanh Minh; ngày 13/5 giỗ Quan Công; ngày 2/8 kỷ niệm ngày sửa miếu… nhằm cầu may, cầu phúc và an lành cho nhân dân. Vào những ngày lễ, mọi người dân trong vùng góp tiền, gạo mua lễ vật mang đến miếu. Để chuẩn bị cho mỗi dịp lễ người dân phân thành tổ, nhóm luân phiên nhau đứng ra chuẩn bị mâm lễ, gồm: 1 con lợn, xôi, gà, hoa quả, bánh kẹo… Phần lễ do các cụ cao tuổi tiến hành. Chỉ riêng ngày lễ mùng 2/2 có mời thầy cúng đến làm lễ. Sau khi tiến hành phần lễ mọi người cùng nhau tổ chức ăn chung và khi ra về có phần lộc chia cho các gia đình. Ngoài những ngày lễ chính trong năm, vào ngày mùng 1, ngày Rằm hằng tháng hoặc khi trong nhà có việc lớn người dân trong vùng vẫn đến thắp hương, cầu an lành, tài phúc. Tháng 4 năm 2018, miếu được Uỷ ban nhân dân tỉnh công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh. Nhưng do trải qua thời gian dài, ảnh hưởng của nhiều yếu tố: thời tiết, khí hậu, con người…, miếu Quan Đế không còn giữ được hiện trạng như ban đầu. Các di vật trong di tích, như: trống, chuông… đã bị mất năm 1978, hệ thống tượng cũ bị phá năm 1979. Mặt khác, do nền miếu thấp hơn so với mặt đường 20 cm nên ẩm thấp dẫn đến hệ thống tường, mái, kèo… đều đang trong tình trạng xuống cấp nên rất cần được tu sửa. Theo lãnh đạo xã Ngọc Động, từ đầu năm 2019 bà con trong khu vực miếu đã tự nguyện quyên góp tiền và sẽ tiến hành tu sửa, tiếp tục bảo tồn, gìn giữ và phát huy giá trị Di tích lịch sử - văn hóa miếu Quan Đế hiệu quả. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Cao Bằng

Cao Bằng 197 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Miếu Bách Linh.

Miếu Bách Linh (người dân địa phương còn gọi là chùa Bách Linh) tọa lạc tại Phố Cũ, thị trấn Quảng Uyên (Quảng Hòa). Miếu thờ 100 điều linh thiêng nhất của nhiều loại vật, trong đó đứng đầu là rồng - một con vật thần linh với sức mạnh thần kỳ, biểu tượng của sự cao sang huyền bí nhả ngọc, phun châu, đứng đầu tứ linh Long, Ly, Quy, Phụng. Con rồng ở miếu được thần thánh hóa tới mức siêu phàm, cùng với những điều linh quý trở thành giá trị tinh thần vô giá, niềm tin, ngưỡng vọng cầu được ước thấy của nhân dân địa phương khi đến cầu bái. Tới nay, các nhà nghiên cứu xã hội nhân văn vẫn chưa xác định được ngôi miếu được khởi dựng từ bao giờ, chỉ biết là đã xuất hiện từ rất lâu và hằn sâu trong ký ức dân gian, gắn với Lễ hội Pháo hoa được tổ chức dịp đầu xuân hằng năm. Thực trạng của miếu Bách Linh khá tương trùng với các đền, chùa, miếu trên địa bàn tỉnh là trải qua quá trình lịch sử thăng trầm của các triều đại nên có sự đổi thay, không còn nguyên vẹn như ban đầu. Tương truyền rằng, kiến trúc miếu gồm 3 phần: tam quan, tiền đường, hậu cung mang dáng dấp kiến trúc thời nhà Nguyễn. Phần tam quan của ngôi miếu được xây dựng bằng vật liệu gạch, có 3 cửa theo kiểu vòng cuốn nhưng vì nguyên do nào đó mà cửa nhỏ hai bên đã bị bịt lại, chỉ còn cửa chính giữa. Trên các cột cổng tam quan đều có hoành phi, câu đối hiện đã bị mờ, không đọc được. Giữa cổng chính chỉ còn dòng chữ “Bách Linh miếu” và trên đó có đắp nổi hình rồng uốn lượn sinh động. Bước qua tam quan là đến tiền đường. Kết nối giữa tam quan và tiền đường là một khoảng sân khá rộng (nay được láng xi măng), có tường đá bao quanh sân cao khoảng 1,5 m. Tiền đường có nền cao hơn mặt sân 0,65 m, cột, kèo bằng gỗ; mái, hiên lợp bằng ngói máng và có bức trạm trổ rồng ngậm ngọc, đầu rồng với những nét hoa văn tinh xảo cách điệu. Chính giữa tiền đường là cửa bằng gỗ rộng 1,6 m, cao 2,2 m; trong tiền đường có 3 bệ thờ. Miếu Bách Linh gắn liền với Lễ hội Pháo hoa ở thị trấn Quảng Uyên tổ chức vào ngày 2/2 âm lịch hằng năm. Trước khi vào phần hội là phần lễ được tổ chức từ chiều 30 tháng Giêng âm lịch. Mở đầu là Lễ khai quang tại mỏ nước Cốc Chủ gần miếu Bách Linh, chủ lễ là một cụ già cao tuổi có uy tín trong cộng đồng, gia đình, dòng tộc vượng con cháu. Chiều 1/2 âm lịch, Ban Tổ chức lễ hội và người dân đến miếu Bách Linh dâng lễ cúng, vọng bái, cầu khấn thần linh phù hộ cho mọi nhà, mọi người năm mới làm ăn phát đạt, thịnh vượng. Sáng 2/2 làm lễ rước thần, gồm 4 kiệu theo thứ tự: kiệu rước ảnh Bác Hồ, kiệu thần địa phương, kiệu pháo hoa, kiệu con lợn quay, sau cùng là đoàn rước rồng. Lễ rước xuất phát từ miếu Bách Linh đến Đền thờ Nùng Trí Cao, Đền thờ Trần Hưng Đạo rồi đi qua các ngõ phố, từng gia đình, cơ quan, trường học, cơ sở sản xuất, kinh doanh. Đây được xem như thần linh vi hành, kiểm tra, quan sát nhân dân làm ăn và mang lộc cùng niềm vui may mắn đến cho họ. Vì vậy, đoàn rước đi đến đâu đều được mọi người trân trọng đón tiếp nồng nhiệt trong niềm vui hân hoan, phấn khởi. Phần hội được tổ chức vào chiều 2/2 âm lịch với nhiều trò chơi dân gian múa rồng, múa kỳ lân, tung còn, hát sli, lượn giao duyên, võ dân tộc, cờ tướng, kéo co, đẩy gậy, bóng chuyền, bóng đá… cuốn hút người dân tham gia. Đặc biệt trò chơi dân gian tranh đầu pháo là sôi nổi nhất, đây là trò chơi thể hiện sức mạnh thể chất cường tráng và rèn luyện bản lĩnh, quyết đoán, nhanh nhẹn, năng động, tinh thần thượng võ, hào hiệp của thanh niên. Ban Tổ chức lễ hội tập hợp các đội thanh niên thành hình vòng tròn vây quanh khu vực trung tâm sân chơi, ai giành được vòng lộc ở đầu pháo thì cả năm sẽ phát tài lộc, bình an, may mắn. Phần thưởng là con lợn quay lá mác mật cho cả đội chơi và chiếc thủ lợn hoàn toàn thuộc về chủ nhân vòng lộc. Ngày hôm đó, ở đâu cũng gặp bà con đồ xôi ngũ sắc và thịt lợn quay, đặc sản ở lễ hội và các loại bánh kẹo, đồ ăn, thức uống bản địa. Miếu Bách Linh còn là nơi làm kho lương thực, vũ khí, lớp học trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược. Cùng với những giá trị về tập quán, tín ngưỡng, tâm linh mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, miếu được Uỷ ban nhân dân tỉnh công nhận xếp hạng di tích cấp tỉnh theo Quyết định số 2856/Quyết định -Uỷ Ban ngày 2/12/2003. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Cao Bằng.

Cao Bằng 207 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Điểm di tích nổi bật